I. THỜI KỲ HÌNH THÀNH (1875 ĐẾN NAY)

A. CHA SỞ ĐẦU TIÊN: CHA ANTÔN NGUYỄN VĂN VÕ
(1875 – 1886)

1. NĂM 1875 HÌNH THÀNH HỌ ĐẠO BÚNG:
Ngài sinh năm 1837 tại Thủ Ngữ (Sài Gòn) chịu chức linh mục năm 1866. không rõ Ngài được GM Jean Claude Miche (1864 – 1873) hay GM Isidore Francois Joseph Colombert (1873 – 1894)(thời của Ngài gần 200 nhà thờ được xây dựng) sai đi phục vụ họ Búngtừ lúc nào nhưng trong sổ rửa tội đang lưu tại Búng, thì ở trang 7, số 14 có ghi: Cha Antôn rửa tội cho Anna Vô ngày 11/01/1875; Ở trang 3, số 5 ghi ngày 08/04/1875 cha Antôn rửa tội cho Phêrô Trong, sinh ngày 06/02/1875 con của Phêrô Núi và Maria Ngọc; Trang 9, số 18 ghi ngày 15/01/1875, cha Antôn rửa tôi cho Gioan Baotixita Lai, con ông Simon Định và bà Maria Hậu.
Như vậy có thể giải quyết được năm họ đạo Búng hình thành rõ rệt là năm 1875.
Cũng nên nhớ rằng 1875 là năm Thánh của Giáo Hội Công Giáo khắp thế giới. Trong báo cáo hàng năm 1875, Giám Mục Colombert đã viết: “Trong giáo hội Tây Đàng Trong có 43.000 giáo dân (40.000 người Việt Nam, Trung Hoa, Châu Á, 3500 người Âu), 36 giáo xứ (Paroisse), 164 họ đạo (Chrétienté), 150 nhà thờ hay nhà nguyện…..Tôi đã chỉ định hai nhóm 5 hay 6 nhà truyền giáo và linh mục bản xứ lần lượt đến các giáo xứ. Trong 6, 8 hay 10 ngày tùy theo số giáo dân, các cha giảng 3 bài mỗi ngày, cho họ xét mình, xưng tội, rước lễ, gỡ rối các đôi hôn phối, kêu gọi người có tội công khai và bỏ đạo trở về. Dân Việt chúng tỏ thiện chí đáng khen và cố gắng hết sức để hưởng ơn toàn xá. Họ ở nhà thờ suốt ngày, và đêm hôm, quên ăn, quên uống. Suốt dọc đường hay ở nhà, họ giữ thinh lặng khổ hạnh”.Trong biến cố này, chắc họ Búng cũng không hờ hững và dĩ nhiên phải có linh mục giúp đỡ. Rõ rệt là theo sổ rửa tội, thì năm 1875, cha đã rửa tôi 54 người: 48 trẻ nhỏ, 6 người theo đạo (5 người lớn, 1 em nhỏ)
Đây cũng là một lý do nữa để khẳng định họ đạo Búng chính thức hình thành vào năm 1875.

2. NHÀ THỜ THỨ TƯ

Cha Martin ghi: :Cha Antôn xây dựng tại một khu đất gần chợ Búng, một nhà thờ khá rộng rãi, nhưng về sau, với số giáo dân đông lên, nó trở nên quá nhỏ”
Còn truyền thống khác chép rằng: “Có ông lái bán cá ở cầu bà Hai Mọi dưng một phần đất, nên dời nhà thờ về đó (khu đất chùa Bà ngày nay). Gần nhà thờ có một trường học. Khởi sự từ đây cha sở là cha Antôn Võ
Nhà thờ này không tồn tại được lâu, vì một đêm nọ, mưa to gió lớn đã thổi sập tất cả, Cha Antôn bị kẹt trong đóng đổ nát đó, nhưng không bị thương tích gì. Sáng hôm sau giáo dân đên dọn dẹp và đem cha Antôn ra ngoài.

3. NHÀ THỜ THỨ NĂM

Nhận thấy có nhiều bất tiện, huyên náo vì gần chợ, lại thêm gần sông Búng nên cha Antôn đề nghị xây nhà thờ ở địa điểm khác.
Thời kỳ này giao thông chính yếu ở vùng này là bằng ghe thuyền (đường thủy), còn đường bộ chỉ là đường mòn, đường đất nhỏ hẹp. Năm 1880, chính quyền mở đường từ Lái Thiêu phóng thật ngay đi ngang qua Cây Me, Hưng Định, nhưng tới An Thạnh thì không rõ lý do nào mà ngưng lại (cho đến năm 2010). Còn đường quốc lộ 13 lúc ấy là đường mòn, từ Lái Thiêu qua cầu Mới, đến Cầu Ngang, theo con sông Búng lên Thủ Dầu Một, thì được trải đá và hoàn thành năm 1895. Do đó mới biết nhà thờ Lái Thiêu được xây từ năm 1894 – 1897 quay ra hướng sông là hướng chính.
Chọn địa điểm xong thì lo xây cất. Tuy nhiên, theo truyền tụng thì nhà thờ thứ năm này cũng hư hại do bão táp, chi tiết này không được cha Martin ghi rõ, nhưng Ngài viết cha Thơ (1886 – 1893) kế nhiệm cha Antôn Võ, “lo xây dựng nhà thờ mới”. Vì nhà thờ cũ theo ông Linh ghi lại “cũng cất bằng cây lợp lá”.
v Như vậy địa điểm hiện nay có 2 ngôi nhà thờ: Một do cha Antôn Võ, và một do cha Thơ.

1. VIỆC MỤC VỤ CỦA CHA ANTÔN – CHA SỞ ĐẦU TIÊN:

Theo lời ghi chép của cha Martin, cha Antôn đã để lại một kỷ niệm rất sống động nơi họ Búng. Giáo dân gọi cha Antôn với tấm lòng kính trọng, đầy yêu thương. Cha rất nhiệt thành lo cho ơn gọi. Thời của cha có tới 20 chủng sinh họ đạo đi chủng viện, cha đã cung cấp nhiều ơn gọi cho nhà Kín, dòng Thánh Phaolô, dòng Mến Thánh Giá Thủ Thiêm, Chợ Quán.
Việc rửa tội trong những năm cha ở Búng được tổng kết như sau:
[IMG]file:///C:/DOCUME~1/(-_-)A~1/LOCALS~1/Temp/msohtml1/01/clip_image001.gif[/IMG] Năm 1875: Cha rửa tội cho 58 người.
[IMG]file:///C:/DOCUME~1/(-_-)A~1/LOCALS~1/Temp/msohtml1/01/clip_image001.gif[/IMG] Năm 1876: Cha rửa tội cho 99 người
[IMG]file:///C:/DOCUME~1/(-_-)A~1/LOCALS~1/Temp/msohtml1/01/clip_image001.gif[/IMG] Năm 1877: Cha rửa tội cho 61 người
[IMG]file:///C:/DOCUME~1/(-_-)A~1/LOCALS~1/Temp/msohtml1/01/clip_image001.gif[/IMG] Năm 1878: Cha rửa tội cho 73 người
[IMG]file:///C:/DOCUME~1/(-_-)A~1/LOCALS~1/Temp/msohtml1/01/clip_image001.gif[/IMG] Năm 1879: Cha rửa tội cho 64 người
[IMG]file:///C:/DOCUME~1/(-_-)A~1/LOCALS~1/Temp/msohtml1/01/clip_image001.gif[/IMG] Năm 1880: Cha rửa tội cho 62 người
[IMG]file:///C:/DOCUME~1/(-_-)A~1/LOCALS~1/Temp/msohtml1/01/clip_image001.gif[/IMG] Năm 1881: Cha rửa tội cho 78 người
[IMG]file:///C:/DOCUME~1/(-_-)A~1/LOCALS~1/Temp/msohtml1/01/clip_image001.gif[/IMG] Năm 1882: Cha rửa tội cho 74 người
[IMG]file:///C:/DOCUME~1/(-_-)A~1/LOCALS~1/Temp/msohtml1/01/clip_image001.gif[/IMG] Năm 1883: Cha rửa tội cho 31 người
[IMG]file:///C:/DOCUME~1/(-_-)A~1/LOCALS~1/Temp/msohtml1/01/clip_image001.gif[/IMG] Năm 1884: Cha rửa tội cho 34 người
[IMG]file:///C:/DOCUME~1/(-_-)A~1/LOCALS~1/Temp/msohtml1/01/clip_image001.gif[/IMG] Năm 1885: Cha rửa tội cho 68 người
[IMG]file:///C:/DOCUME~1/(-_-)A~1/LOCALS~1/Temp/msohtml1/01/clip_image001.gif[/IMG] 04/06/1886: Cha rửa tội cho 25 người
Tổng cộng trong vòng 11 năm, Cha đã rửa tội cho 727 người lớn lẫn trẻ em.
[IMG]file:///C:/DOCUME~1/(-_-)A~1/LOCALS~1/Temp/msohtml1/01/clip_image001.gif[/IMG] Về giáo dục, cha Marrtin có viết : Dưới thời của cha Antôn Võ, đã có trường học đầu tiên. Thầy giáo dạy cho các em bên nam là cựu chủng sinh học ở Pinăng (Malaysia). Còn các em gái thì cha mời các Dì Mến Thánh Giá Thủ Thiêm đến dạy. Như vậy, các dì Thủ Thiêm đã góp công cho họ đạo từ thời cha Antôn Võ (1875 – 1886). Không rõ giáo dân lúc ấy là bao nhiêu, có thể trên dưới 1.000 tín hữu, vì số liệu năm 1893 nghĩa là chưa đầy 20 năm (1875 – 1893), thì báo cáo giáo dân Búng lên đến 1.500 người. Qua những số liệu như thế cha sở rất vất vả.
Vì thế sau 04/06/1886 có lẽ Ngài đã đau yếu nhiều, cha Nhân đến phụ giúp Ngài lo mục vụ.
Và ngày 06/10/1886, cha Antôn Nguyễn Văn Võ, Cha sở đầu tiên của Họ Đạo Búng đã an nghỉ trong Chúa, hưởng dương 49 tuổi.
Ngài đã được an táng phía trước bàn thờ Đức Mẹ trong ngôi nhà thờ mới. (LM Martin ghi).

Tấm mộ bia ghi như sau :




HIC JACET


IN SPE RESURRECTIONIS GRORIOSAE


ANTONIUS VÕ


SACERDOS


CONCINCINAE OCCIDENTALIS


Anno Domini 1837 natus


Die 6 mensis Octobris


Anni 1886


DEFUNCTUS


R.I.P

Xin tạm dịch:



NƠI AN NGHỈ


TRONG NIỀM HY VỌNG SỐNG LẠI VINH QUANG


ANTÔN VÕ


Linh Mục


Tây Đàng Trong


Sinh năm 1837


Qua Đời


Ngày 06 tháng 10


Năm 1886


Xin cho linh hồn cha được yên nghỉ


2. CHA SỞ PHANXICÔ TRẦN ĐỨC NHÂN (TẠM THỜI)

Sổ rửa tội Họ Búng ghi nhận : Sau khi cha Antôn Võ ký sổ rửa tội lần cuối ngày 04/06/1886 thì cha Nhân đến giúp và ký sổ rửa tội từ 11/06/1886 đến 08/10/1886.
Cha Phanxicô Trần Đức Nhân sinh năm 1849 tại Đất Đỏ (Bà Rịa) chịu chức Linh mục năm 1879 và qua đời năm 1935.

B. CHA SỞ THỨ HAI: CHA GIUSE MARTINÔ NGUYỄN TRI THƠ (1886 – 1893)
Ø Sinh năm 1848 tại Mỹ Hảo
Ø Chịu chức linh mục năm 1878
Ø Qua đời năm 1927
Cha Thơ bắt đầu ký sổ rửa tội ngày 23/10/1886 đến ngày 18/02/1893.
Vậy Cha Giuse Thơ giúp họ đạo Búng được 7 năm.
Cha Marrtin ghi lại như sau : Cha Thơ kế nhiệm Ngài (cha Antôn Võ), và lo xây dựng nhà thờ mới. Phải nói rằng đây là NHÀ THỜ THỨ SÁU cùng xây trên một địa điểm như nhà thờ thứ năm (do cha Antôn xây). Có tài liệu nói thêm : Nhà thờ này ông Trùm Tài vẽ mẫu Bằng khoán do cha Thơ đứng tên. Theo thủ bút của cha Martin để lại : Vì không có vốn cần thiết (cho việc xây cất) nên Ngài (Cha Thơ) chỉ làm nhà thờ từng phần, và đã khổ nhọc để lợp xong mái nhà thờ trước khi rời nhiệm sở 7 năm sau đó. Giáo dân rất tích cực góp công sức nhưng họ không giàu có gì. Lúc đó vài bất động sản của họ đạo phải được bán đi để lo xây cất, nhưng cũng được một số tiền nhỏ nên cũng góp ít chứ không nhiều vào công việc của họ đạo.
Nhờ ơn Chúa và sự công tác của nhiều người NHÀ THỜ THỨ SÁU này cũng đã được xây dựng xong năm 1888. Ngày nay ở tiền đường nhà thờ có ghi dòng chữ ‘AED. 1888 REST. 1953’ (nghĩa là đã được xây từ năm 1888 và được tu sửa năm 1953).
Khi Cha Thơ đi nhận nhiệm sở mới thì có hai cha tạm thay thế.
· Từ 14/03/1893, Cha Anrê Thể ký sổ rửa tội.
· Từ 31/07/1893 đến 13/11/1893, Cha Anrê Bửu ký sổ rửa tội.

C.CHA SƠ THỨ BA: CHA PHAOLÔ MARCEL SIMON(1893 – 1895)

1. SƠ LƯỢC TIỂU SỬ CỦA CHA SIMON :

Ø Sinh ngày 14 hay 16/10/1844 ở Toulon sur Arroux
Ø Vào chủng viện các cha Thừa sai, 01/10/1866 (đã chịu chức cắt tóc).
Ø Chịu chức linh mục 19/12/1868
Ø 16/02/1869, đi đến Tây Đàng Trong (Sài Gòn) và làm giáo sư ở chủng viện Sài Gòn.
Ø 1871 – 1875 : Phục vụ ở họ Cái Bè
Ø 1875 – 1878 : Phục vụ ở họ Mặc Bắc
Ø 1879 – 1892 : Phục vụ ở họ Tây Ninh
Ø 1893 – 1895 : Phục vụ ở họ Búng (lúc 49 tuổi)
Ø 1896 : Phục vụ ở họ Vũng Tàu
Ø 1906 : Phục vụ ở Dầu Giây
Ø Ngày 10/12/1908 : Qua đời ở Sài Gòn, chôn gần mộ Đức Giám Mục Pierre Joseph Georges Pigneau de Behaine (02/02/1741 – 09/10/1799) (tên Việt Bá Đa Lộc) (Lăng Cha Cả) hưởng thọ 64 tuổi.

2. CÔNG TÁC MỤC VỤ :
Cha Simon xây nhà cha sở. Trước kia đã phục vụ ở Tây Ninh, nên cha đã mua gỗ từ Tây Ninh về để xây cất. Tuy nhiên, các vách tường thì lại cho trét bằng đất và rơm nên mối mọt làm ổ, chẳng bao lâu thì đầy nhà.
· Thời đó các tên thánh rửa tội mà ngiáo dân truyền lại cho nhau không nhiều, cha Simon đã một danh sách các thánh khác và gắn ngay trên giếng rửa tội, để ai muốn chọn tên thánh nào cho đứa trẻ rửa tội thì tùy ý chọn.
· Khi tham dự nghi lễ phụng vụ, các thanh htiếu niên thường thụ động. Do đó, cha Simon buộc mỗi người phải mang theo sách mục lục.
Trong bài tiễn đưa cha Simon qua đời có đoạn viết : Được gọi trông coi họ Búng với số dân gần 1.500 người, cha bắt đầu việc mục vụ, đặc biệt quan tâm đến giới trẻ và thiếu nhi rất đông trong họ.
Ở Búng, cũng như trong các họ đạo mà cha phục vụ, cha không quên thực hành nghề thuốc miễn phí (Nên biết : Cha đã học ngành y trước đó NV). Nhất là cha rất tuyệt vời khi chăm sóc bệnh nhân một cách khéo léo, các người đau đớn vì vết thương, tất cả các bệnh ngoài da, không một chút ghê tởm, với một sự nhanh nhẹn trìu mến làm an tâm những ai sợ sệt. Cha băng dán vết thương một cách nhẹ nhàng giống hệt y tá đầy kinh nghiệm. Thật sung sướng khi mỗi sáng nhìn thấy những đám người lương và người giáo dân đi tới cha và trở về được sự xoa dịu nhờ sự cứu chữa của cha, được an ủi nhờ những lời ấm áp và động viên. Biết bao người lương đã nhờ thế biết được Chúa Trời nhân hậu. Nếu phần đông họ không xin Rửa Tội thì ít ra họ không thể không quý chuộng đạo này, mà các mục tử tỏ ra bác ái và thông cảm những đau khổ của con người.
Cũng vì vậy mà ĐGM Dépierre chọn cha Simon đi Vũng Tàu lập một dưỡng đường để các thừa sai mỏi mệt và các bệnh nhân vừa khỏi bệnh có thể đến nghỉ ngơi. Cha Simon đành rời xa Búng để đi nhiệm sở là Vũng Tàu vào năm 1896.
D. CHA SỞ THỨ TƯ : CHA FÉLIX FRISON (HOÀNG) (12/1895 – 1899) :

1. SƠ LƯỢC TIỂU SỬ :

Ø Sinh ngày 21/01/1862 tại Argancy, giáo phận Metz
Ø 12/09/1882 gia nhập chủng viện thừa sai, chịu chức cắt tóc.
Ø 27/09/1885, chịu chức linh mục
Ø 02/12/1885 đi đến giáo phận Tây Đàng Trong (Sài Gòn)
Ø Năm 1888 – 1891 : Ở họ Tha La, cha Frison hướng dẫn, giúp phương tiện cho giáo dân khai phá rừng để trồng trọt cày cấy. Cha đã mở mang nước Chúa từ họ đạo Tha La đi đến thành lập họ đạo Rạch Gốc, Rạch Thiên.
Ø 12/1895 – 1899 : Cha sở họ Búng
Ø 1899 : Cha sở Mặc Bắc
Ø 1935 : Cha mừng lễ vàng (Kim khánh) linh mục, đồng thời giáp 100 năm Thánh Marchand Du tử đạo (20/11/1835) ĐGM Dumortier, 16 thừa sai và 37 linh mục bản xứ tham dự. Tối hôm lễ mừng có cuộc bắn pháo bông lớn trước 10.000 người đến xem.

Sau khi ở Mặc Bắc cha Frison được đổi về Thủ Dầu Một. Ngài xây nhà thờ Thủ, là nhà thờ chánh tòa của giáo phận Phú Cường. Phải mất nhiều năm và tiền tài của gia đình Ngài, cộng với nhóm thợ ở Mặc Bắc xây dựng theo mẫu nhà thờ Mặc Bắc. Nhà thờ này được làm phép và khánh thành ngày thứ tư 23/07/1947
Ø 1939 – 1947 : Cha sở họ Thủ Dầu Một
Ø 29/06/1947 : Qua đời, hưởng thọ 85 tuổi

2. CÔNG VIỆC MỤC VỤ :

Sổ rửa tội lưu trữ tại Búng ghi cha Frison rửa tội và ký vào sổ từ ngày 12/12/1895 đến ngày 17/02/1900
Ở tại Búng cha đã tô phía bên trong nhà thờ và lát gạch bông ở cung Thánh. Mua một miếng đất cho họ đạo (cha Martin ghi)
hiện nay họ đạo Búng còn 3 quả chuông, tiếng vang thánh thót là do công lao của cha Frison.

Ba quả chuông có ghi những dòng chữ như sau :



CHUÔNG 1 (tiếng trầm, to nhất)


Petrus Nguyễn Công Đàng


Et Martha Lê Thị Đạo ejus sponsa (vợ của ông)


Me Obtulerunt (đã dâng cho tôi)


Búng Hội 1899


Engène Baudouin, fondeur (thợ đúc) à Marseille



CHUÔNG 2 (tiếng trung, to vừa)


Uno corde et animo fideles


Me Obtulerunt


(Các giáo hữu chung một lòng và tâm hồn đã dâng cúng cho tôi)


Búng Hội 1899


Engène Baudouin, fondeur (thợ đúc) à Marseille



CHUÔNG 3(tiếng thanh, nhỏ)


Maria Nguyễn Thị Mới


Me obtulit (đã dâng cho tôi)


Anno Domini 1896 (năm 1896)


Engène Baudouin, fondeur à Marseille


Trong kỷ yếu giáo phận Phú Cường (1965 – 2005), ‘Quả chuông Tây, đường kính 0.70m hiện nay, do ông bà Micae Trần Văn Toán và Maria Huỳnh Thị Mau dâng cúng, Họ Đạo Bình Sơn, 1897’. Engène Baudouin, fondeur (thợ đúc) à Marseille’
Chắc hẳn là do Cha sở lúc ấy là cha F.Frison đem từ Pháp về họ nhánh Bình Sơn. Ngài vừa lắp xong 3 quả chuông thì được lệnh đi nhậm xứ Mặc Bắc (1900). Trong khoảng 5 năm ở Búng, cha Frison cũng đã để lại tiếng vang cho đến ngày nay (2007).

E. CHA SỞ THỨ NĂM : CHA NICOLAS EMILE COLSON (1900 – 1901)

1. SƠ LƯỢC TIỂU SỬ :

Ø Sinh ngày18/11/1846 ở Manoncourt-sur-seille
Ø 15/09/1868 gia nhập chủng viên Thừa Sai
Ø 25/05/1872 chịu chức linh mục
Ø 19/06/1872 đi đến Tây Đàng Trong (Sài Gòn)
Ø 1877 thư ký ĐGM Colombert
Ø 1878 nhậm xứ Cái Nhum
Ø Đau một vài năm sau đó coi xứ Tân Qui
Ø 1901 Cha sở Họ Đạo Búng
Ø 1903 – 1913 cha sở họ Chợ Lớn
Ø 19/07/1913 qua đời ở Sài Gòn, hưởng thọ 67 tuổi.

2. CÔNG VIỆC MỤC VỤ :

Cha Martin ghi ít dòng sau đây về cha Colson ‘Cha coi sóc họ đạo này chỉ trong vòng hai năm. Sau quay trở lại họ Tân Qui mà trước đó Ngài đã ra đi với nhiều đau đớn’(Le P. Colson fut ensuite chargé de cette paroisre òu il ne resta que deux ans, et tourna à Tân Qui dòu il était sorti avectant de peine).
Như thế cha Colson ở Búng 2 năm, sau đó đến Tân Qui khoảng 1,2 năm trước khi nhậm xứ Chợ Lớn(1903 – 1913).
Cha Colson ký sổ rửa tội từ 15/03/1900 – 19/10/1901.


nguồn:http://vn.360plus.yahoo.com/giaoxubu...v=792&next=787