Love Telling ThanhCaVN nhắn với ACE: Chúng con cậy vì Danh Chúa nhân từ, xin cho Linh hồn Cha cố Phêrô (Ns. Kim Long) được lên chốn nghỉ ngơi. Hằng xem thấy mặt Đức Chúa Trời sáng láng vui vẻ vô cùng. Amen! Loan Pham nhắn với ACE: Giêsu Maria Giuse, con mến yêu xin thương cứu rỗi linh hồn Phê-rô Lm. Kim Long sớm được hưởng Nhan Thánh Chúa. Amen Loan Pham nhắn với ACE: Hòa cùng với Giáo Hội Công Giáo Việt Nam với sự ra đi của Lm. Kim Long là Nhạc sĩ quý mến của chúng ta...đó là sự thương xót mất mát rất lớn của Thánh Nhạc Việt Nam... chúng ta hãy cùng dâng lời nguy Loan Pham nhắn với Gia đình TCVN: Hòa cùng Giáo Hội Công giáo Việt Nam với sự ra đi vô cùng thương tiếc của Lm. Kim Long là nhạc sĩ Thánh Ca thân yêu của chúng ta... Chúng ta cùng dâng lời nguyện xin: Giesu Matia Giuse xin thương cứu rỗi linh ThanhCaVN nhắn với ACE: Nhân dịp Sinh Nhật lần thứ 18 Website, BQT-TCVN kính chúc Quý Cha, Quý Tu sỹ Nam Nữ, Quý Nhạc sỹ - Ca trưởng – Ca sỹ, Quý Ân Nhân và toàn thể ACE luôn tràn đầy HỒNG ÂN THIÊN CHÚA. ThanhCaVN nhắn với ACE: Chúng con cậy vì Danh Chúa nhân từ, xin cho Linh hồn ĐTC Phanxicô được lên chốn nghỉ ngơi. Hằng xem thấy mặt Đức Chúa Trời sáng láng vui vẻ vô cùng. Amen!

kết quả từ 1 tới 2 trên 2

Chủ đề: TRÁCH NHIỆM LUÂN LÝ TRONG ĐỜI SỐNG HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Threaded View

  1. #2
    AugustineTuanBao's Avatar

    Tuổi: 28
    Tham gia ngày: Aug 2009
    Tên Thánh: Augustine
    Giới tính: Nam
    Đến từ: Bất cứ nơi đâu...
    Quốc gia: Vietnam
    Bài gởi: 2,015
    Cám ơn
    3,086
    Được cám ơn 10,436 lần trong 1,881 bài viết

    Default

    V. GIÁO HUẤN CỦA HUẤN QUYỀN

    Đại đa số các giáo phụ ủng hộ lập trường tuyệt đối bất khả phân ly của hôn nhân. Tuy thế, cũng có một số vị đã bênh vực trường hợp ngoại trừ cho một số trường hợp nan giải. Họ thường xuyên trưng dẫn đoạn văn của Mat-thê-ô 5,32, để ủng hộ cho quan điểm và lập trường của họ.
    Thái độ của Huấn Quyền đã được đặc điểm hoá bằng những xác tín không lay chuyển rằng: sự ràng buộc hôn nhân Công Giáo ngang qua bí tích, thì không thể tháo cởi, nó mang tính chất bất khả phân ly. Giáo huấn của các Đức Giáo Hoàng và của Công Đồng chung thì kiên vững và hầu như đồng tâm nhất trí: việc tái hôn hay lập gia đình lại, sau khi đã ly dị là điều không thể được, và không thể chấp nhận, ngoại trừ trong trường hợp đã được tiêu hôn (Annulment), nghĩa là Giáo Hội, qua toà án Hôn Nhân Công Giáo, xác nhận hôn nhân đầu tiên của họ không thành sự.[8] Giáo Hội Công Giáo hằng lên tiếng bảo vệ sự tuyệt đối bất khả phân ly của hôn nhân, ngay cả khi phải trả một giá rất đắt. Một ví dụ điển hình nổi bật là thái độ khẳng định của hàng phẩm trật thuộc Giáo Hội Công Giáo La Mã đối với vua Henry VIII của Anh quốc, người đã gây nên cuộc ly khai khỏi Giáo Hội Công Giáo La Mã và thành lập Anh Giáo, bởi vì Đức Giáo Hoàng thời bấy giờ đã khước từ thỉnh nguyện thư của ngài nhằm để xin phép giải hôn phối đầu tiên, và cho phép ngài được kết hôn một lần nữa.
    Giáo thuyết về việc bất khả phân ly trong hôn nhân Công Giáo được công bố một cách rõ rệt, tỏ tường bởi Công Đồng Trentô. Nhưng có một điểm đáng chú ý là các nghị phụ đã chủ tâm tránh né việc lên án cách thực hành của các Giáo Hội Đông Phương liên quan đến việc ly dị. Theo các giáo hội này thì quan điểm của họ cho rằng: hiệu lực của bí tích hôn phối không có giá trị suốt cả cuộc đời, đối với người phối ngẫu đầu tiên. Tuy vậy, hôn nhân thứ hai chỉ là việc bất đặng đừng phải chấp nhận và cho phép đón nhận Bí tích Hôn phối.
    Công Đồng Va-ti-ca-nô II công bố việc bất khả phân ly của hôn nhân, mặc dầu có một số nghị phụ đề nghị cho phép ly dị trong một vài trường hợp nan giải. Sau đây, tôi xin phép trích dẫn một đoạn trong Hiến chế Mục Vụ về Giáo Hội trong Thế Giới Ngày Nay (Gaudium et Spes), số 48, liên quan đến việc bất khả phân ly trong đời sống hôn nhân.
    "Như thế, bởi một hành vi nhân linh, trong đó, hai vợ chồng tự hiến cho nhau và đón nhận nhau nhờ sự an bài của Thiên Chúa, phát sinh một định chế vững chắc có giá trị trước mặt xã hội nữa. Vì ích lợi của lứa đôi, của con cái và của xã hội, nên sợi dây liên kết thánh thiện này không lệ thuộc sở thích của con người. Chính Thiên Chúa là Đấng tác tạo hôn nhân, phú bẩm những lợi ích và mục tiêu khác… Sự liên kết mật thiết vẫn là sự tự hiến của hai người cho nhau cũng như lợi ích của con cái buộc hai vợ chồng phải hoàn toàn trung tín và đòi họ kết hợp với nhau bất khả phân ly."
    Bộ Giáo luật cũng đã diễn giải một cách chi tiết hơn, liên quan đến Bí tích Hôn Nhân Công Giáo, một khi đã được thành sự trọn vẹn bởi hành vi quan hệ vợ chồng, qua việc giao hợp, thì không thể tháo cởi do quyền lực con người, hoặc bất cứ điều gì ngoài sự chết. (x. Sách Giáo luật, số 1141). Tuy nhiên, nếu như Bí tích Hôn nhân chưa thành sự trọn vẹn thì điều ấy có thể cởi tháo, nếu có lý do chính đáng (x. Sách Giáo Luật, số 1142). Thêm vào đó, việc kết hôn hợp pháp giữa những người chưa chịu phép Rửa Tội, tuy rằng hôn nhân ấy đã thành sự trọn vẹn, thì điều ấy vẫn có thể cởi tháo nhằm ủng hộ đức tin theo đặc ân của thánh Phao-lô (x. Sách Giáo Luật, số 1143). Đặc ân này được dựa trên đoạn thánh thư gửi cho tín hữu Côrintô (1Cr 7, 12-16).

    VI. NHỮNG LÝ DO CƠ BẢN NHẰM PHẢN ĐỐI VIỆC LY DỊ


    Bản văn của Công Đồng Va-ti-ca-nô II liệt kê ba lý do chính nhằm phản đối việc ly dị gồm có: 1) Lợi ích của lứa đôi, 2) của con cái và 3) của xã hội (x. Hiến chế Mục Vụ về Giáo Hội trong Thế Giới Ngày Nay, Gaudium et Spes, số 48). Lý do thứ tư có tính cách thần học, được rút ra từ vai trò của bí tích trong hôn nhân Công Giáo.


    1) Ly dị bị phản đối vì lợi ích của đôi vợ chồng.

    Việc ly dị sẽ đánh mất đi cái ý nghĩa và mục đích của sự tự hiến của hai người cho nhau và lòng trung tín trong tình yêu. Người chồng và người vợ không thể tận hiến cho nhau một cách trọn vẹn, khi mà trong đầu óc của họ vẫn lấp ló một ý nghĩ, là mối dây liên hệ mật thiết ràng buộc trong tình nghĩa vợ chồng vẫn có thể bị tan vỡ. Xét về phương diện tâm lý thì tự bản chất tình yêu của con người đã qui hướng về bạn đường trăm năm. Mục đích của việc bảo vệ và giúp đỡ chăm sóc lẫn nhau là một điều tối cần thiết, nhất là trong khi gặp hoàn cảnh khó khăn, điều này chỉ có thể đảm bảo trong bậc sống hôn nhân khi quan hệ vợ chồng là một quan hệ vĩnh viễn. Quả vậy, tình yêu chân thật trong đời sống hôn nhân không thể giới hạn trong một khoảng khắc nào đó. Nghĩa là hôm nay thì tôi yêu em, nhưng ngày mai thì không còn nữa.
    Việc khẳng định rằng mối dây ràng buộc trong đời sống hôn nhân là bất khả phân ly tạo nên một thế lực rất mạnh, nhằm để bảo vệ lợi ích tình yêu vợ chồng và lòng trung thành. Nó mang lại một động lực rất mạnh, hầu giúp cho đôi vợ chồng chấp nhận, chịu đựng những khuyết điểm của nhau trong kiên nhẫn và bảo tồn sự hiệp nhất cũng như hoà thuận với nhau. "Nếu định chế hôn nhân và gia đình không có một nền tảng vững chắc, thì xã hội sẽ trở nên nghèo nàn, và điều đó đã làm mất đi cái nét yêu kiều của bộ mặt con người. Con người sẽ trở nên cô lập, tính toán so đo với nhau và những mối liên hệ giữa con người với nhau chẳng qua là để vụ lợi. Nó còn làm cho sự đoàn kết mỗi ngày một rạn nứt lớn hơn." Qủa thật chí lý khi nói rằng: "Dấu ấn của tình yêu chân thật là lòng trung thành."


    2. Sự phân ly trong hôn nhân gây tác hại cho trẻ em.

    Một khi mà mối dây liên hệ ràng buộc trong đời sống hôn nhân bị lỏng lẻo, thì con cái bị tước đoạt đi tình cảm của bố hoặc mẹ nó hay cả hai, và điều ấy hiển nhiên ảnh hưởng đến sự tự tin của chúng, việc học hành và gây nên sự bất ổn trong tâm hồn. Sự mất mát đối với trẻ em thì không thể bồi hoàn lại được.
    "Có thể nói không ai chịu nhiều đau khổ hơn các em khi ba mẹ chúng ly dị. Các em là nạn nhân chính trong các cuộc ly dị. Thật vậy, các em là của hy sinh cho sự yếu hèn của cha mẹ. Ly dị được cảm nhận bởi các em như là một sự khước từ của cha mẹ đối với chúng ." (xem "Love Is For Life" - Lá thư mục vụ của Hội Đồng Giám Mục Ái Nhĩ Lan (1985) .
    Thông thường thì các em sẽ gặp phải nhiều vấn nạn và khó khăn khi chúng phải trải qua cuộc ly dị của ba mẹ. Một cha ghẻ hay dì ghẻ không thể nào có thể thay thế cho một người cha hay người mẹ của các em, mặc dầu có rất nhiều những cha mẹ ghẻ đã làm hết sức của họ. Một em khi phải sống với cha hay mẹ ghẻ của mình thì khả năng bị đối xử tàn tệ có thể diễn ra thường xuyên hơn khi em ấy sống với cha mẹ ruột của mình.[9]
    Lợi ích của con cái ít khi được sử dụng để coi đó như một sự ép buộc cha mẹ không được phép ly dị, nhưng ngược lại, nó dùng để đấu tranh cho sự bền vững của mái ấm gia đình.


    3) Lợi ích của xã hội đòi hỏi gia đình phải bền vững.

    Chỉ có phương cách ấy thì việc giáo dục lành mạnh cho các thế hệ trẻ có thể được bảo đảm; và sự tương thân, tương trợ đoàn kết lẫn nhau trong cùng một cộng đoàn mới được bảo vệ và nâng đỡ. Chính quyền không những chỉ có trách nhiệm và bổn phận giải thể những cuộc hôn nhân bị trục trặc, nhưng họ còn phải có trách nhiệm cung cấp những dịch vụ tư vấn về phương diện gia đình hầu giúp đỡ việc hoà giải và tái lập những hôn nhân đã bị đổ vỡ.


    4) Lý luận sau cùng là một lý luận mang tính chất thần học.

    Điều này được xây dựng trên nền tảng của Bí tích Hôn nhân Công Giáo, bởi nó chỉ được áp dụng cho Ki-tô hữu mà thôi. Đức Giê-su Ki-tô gợi lại cho những kẻ đi theo Ngài, việc nhân nhượng cho phép người Do-thái rẫy vợ theo luật của Mô-sê; và trong thư gởi cho giáo đoàn Côrintô (1Cr 7,12-16), thánh Phaolô cũng đã nhân nhượng cho phép họ được ly dị chỉ trong trường hợp hôn nhân không Công Giáo (nghĩa là giữa hai người chưa chịu phép Thanh Tẩy). Ngược lại hôn nhân Công Giáo, một khi đã thành sự và trở nên bí tích thì không thể giải được.
    Chúng ta thấy Bí tích Hôn nhân Công Giáo cũng được nhắc đến trong thư của thánh Phao-lô gửi cho giáo đoàn Ephêsô (Ep 5, 21-33). Bản văn này đã so sánh giữa hôn nhân Ki-tô giáo và sự hiệp nhất của Đức Ki-tô với Giáo Hội, như đã nhắc tới ở phần trên "Hôn nhân Ki-tô giáo là dấu chỉ hữu hiệu, là Bí tích của Giao Ước giữa Đức Ki-tô và Hội Thánh" (x. GLCG, số 1617).
    Thánh Phao-lô còn nói thêm: "Người làm chồng hãy yêu thương vợ như Đức Ki-tô yêu thương Hội Thánh, và hiến mình vì Hội Thánh … Còn những người làm vợ thì hãy tùng phục chồng mình, như Hội Thánh tùng phục Chúa Ki-tô". Nhưng chúng ta cần ghi nhớ điều này: là chúng ta đang sử dụng phương pháp loại suy, để so sánh, do vậy điều ấy có thể trở thành quá khắc khe, khi chúng ta đi đến một kết luận được suy ra từ một giao ước siêu việt có tính cách vĩnh cửu, tuyệt đối giữa Đức Ki-tô và Hội Thánh (Hội Thánh được ví như nàng dâu, chỉ là một cách nói bóng bẩy, đầy tính chất ẩn dụ; và những phần tử cá nhân của Hội Thánh thì đã luôn luôn không trung thành với giao ước), rồi đặt nó ngang hàng với vĩnh viễn và tuyệt đối của giao ước hôn nhân, điều này xét cho kỹ thì nó rất khác biệt, một trật tự không chắc chắn. Theodore Mackin, S.J. trong tác phẩm rất nổi tiếng: Divorce and Remarriage, (Ly Dị và Tái Hôn) (1984), trang 530-537, đã đưa ra một nhận xét như sau: Điểm then chốt trong việc so sánh (bằng phương pháp loại suy của thánh Phao-lô trong Eph 5,21-33) giữa Chúa Ki-tô và Hội Thánh, chính là tình yêu tự hiến và niềm tin tưởng, điều ấy cùng lúc cũng có hiệu lực phát sinh và gây sống động cho sự liên hệ mật thiết giữa vợ chồng với nhau, chứ không có ý ám chỉ đến việc bất khả phân ly của hôn nhân. Để có một chứng cớ rõ rệt nhằm đi đến kết luận về việc bất khả phân ly của hôn nhân qua Bí tích Hôn Phối, chúng ta cần phải có thêm những lý chứng khác nữa. Nói vắn gọn, chúng ta không thể chỉ nại đến mối liên hệ mật thiết giữa Chúa Ki-tô và Hội Thánh để đưa ra một hệ luận cho việc cấm không được ly dị.
    Để kết luận, vì hôn nhân tượng trưng cho một mối liên hệ hết sức mật thiết giữa người nam và người nữ và được nối kết trong việc sinh sản và giáo dục con cái, cho nên hôn nhân mang tính cách hợp nhất và vĩnh viễn. Thêm vào đó, ngay từ giây phút ban đầu, vợ chồng phải mang một trách nhiệm lớn lao và có bổn phận phải gìn giữ, bảo vệ và làm cho đời sống hôn nhân càng ngày càng thắm thiết, kết hợp chặt chẽ hơn. Họ có trọng trách không để cho hôn nhân của mình bị tan vỡ và chết đi. Đây là điều cầm buộc riêng cho những ai đã đi vào đời sống hôn nhân, vì đó là bí tích, là dấu chỉ cho trần gian, và bằng cuộc sống tốt đẹp lứa đôi của họ, họ chiếu giải khuôn mặt và tình yêu của Đức Ki-tô cũng như lòng tín trung của Ngài đối với Hội Thánh.




    Linh Mục Tiến Sĩ Trần Mạnh Hùng C.Ss.R
    Chữ ký của AugustineTuanBao
    Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy. (Gioan 14,6)

  2. Có 2 người cám ơn AugustineTuanBao vì bài này:


Quyền hạn của bạn

  • Bạn không được gửi bài mới
  • Bạn không được gửi bài trả lời
  • Bạn không được gửi kèm file
  • Bạn không được sửa bài

Diễn Đàn Thánh Ca Việt Nam - Email: ThanhCaVN@yahoo.com