|
Piô Phan Văn Tình, CMS.
III. ĐỐI CHIẾU VÀ ÁP DỤNG
1. Đối chiếu hai con đường
a. Những điểm tương đồng
* Mặc dầu hai con đường mang hai tên gọi khác nhau, một bên là “Hy vọng” một bên là “Nội tâm”, nhưng ta thấy cả hai đều cùng dẫn tới một đích chung: Đó là dẫn tới Thiên Chúa.
* Nơi cả hai tâm hồn ĐHY Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận và thánh Augustinô đều mang một nỗi thao thức hướng về tuyệt đối. ĐHY Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận thì diễn tả qua từng giây phút sống trong hy vọng vào Thiên Chúa ở giữa những thù hận và cùng bị của mười ba năm tù đày, ngay chữ "hy vọng" đã nói lên tất cả nỗi niềm khao khát của tâm hồn ngài rồi. Thực ra con đường mà ĐHY Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận vừa diễn tả trên cũng gặp tư tưởng mà thánh Augustinô đã trình bày ngay trong chương đầu tiên của cuốn Tự Thuật rằng: “Lạy Chúa, Chúa đã dựng nên con cho Chúa, nên tâm hồn con sẽ xao xuyến mãi cho tới khi được nghỉ yên trong Chúa mà thôi”.
* Cả hai tác giả đều cho thấy nơi bản chất con người mang đầy giới hạn. Nào là giới hạn của đau khổ, nào là giới hạn của sự chết, nào là giới hạn của tội lỗi, của sa ngã…Chính những giới hạn đó nơi con người đã làm cho nó ray rứt và cảm thấy luôn bị xâu xé trong tâm hồn. Xâu xé giữa thiện và ác, xâu xé giữa ý muốn và hành động…Tuy nhiên, qua những giới hạn và cắn rứt nội tâm đó, hai tác giả cho hay rằng: nếu biết nhìn qua đó một cách tích cực thì nó sẽ trở nên như là những dấu chỉ mách bảo cho ta biết Thiên Chúa và dẫn ta tới Thiên Chúa. Đó là ý nghĩa của con đường hy vọng và con đường nội tâm, như một thứ lăng kính trong suốt khả dĩ nhờ đó chạm vào Đấng Siêu Hình.
* Với những gì trải nghiệm qua cuộc sống, ĐHY Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận và thánh Augustinô đều cho thấy: không thể tìm thấy Thiên Chúa bằng con đường lý luận và chứng minh, mà chỉ có qua kinh nghiệm của cuộc sống với niềm hy vọng và đời sống nội tâm của mình con người mới biết được Thiên Chúa. Vì thánh Augustinô nói: “Nếu anh hiểu được Ngài thì không phải là Ngài”. Còn ĐHY Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận thì con đường hy vọng là thể hiện nỗi khát Chúa là tình yêu và tình yêu Chúa liên lỉ thúc bách ngài. Đơn giản thế thôi, không lý luận, chứng minh phức tạp! Pascal quả quyết: “Nếu có Thượng Đế thì Ngài với ta là một cái gì bất khả lãnh hội vô cùng và ta không thể biết Ngài là gì”. Cũng vậy, thánh Thomas Aquinô nói: “Con người chỉ biết có Thiên Chúa, còn không thể quán triệt được Ngài là gì”.
b. Những điểm dị biệt
* Con đường hy vọng của ĐHY Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận xét về phương diện là những đạo lý sống đạo thì dường như bao trùm và rộng lớn hơn. Nó đề cập đến các phương thế sống con đường hy vọng: ra đi, bổn phận, bền chí, siêu nhiên, cầu nguyện, hy sinh, tin, vâng phục, thanh bần, trong trắng, khiêm nhường, cẩn mật, vui tươi, khôn ngoan, dấn thân, canh tân, bác ái, hy vọng và trong đó có cả vấn đề nội tâm. Nói chung là tất cả những lời khuyên sống con đường hy vọng một cách cụ thể, và mang chiều kích hiện sinh. Trong khi đó Augustinô chỉ đề cập đến kinh nghiệm nội tâm mà thôi.
* Một cách sâu xa hơn, Augustinô nhìn nhận là phải có ân sủng Chúa tác động lên linh hồn thì nó mới cảm nghiệm được Thiên Chúa. Nhưng nơi ĐHY Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận lại xem ra nghiêng về hiện sinh con người với những vấn đề của đời sống Kitô hữu nói chung và Kitô hữu Việt Nam nói riêng, để rồi từ đó tìm thấy được một hướng đi về với Thiên Chúa. Cố nhiên cũng phải nhờ trợ lực từ Thiên Chúa thì con người mới hoàn thành con đường vừa xa vừa gian nan ấy.
* Một cách nào đó ta có thể nói con đường hy vọng của ĐHY Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận vừa đi từ ngoài với những chi tiết cụ thể của đời sống: tù đày, những việc bổn phận, những gì cuộc đời vỗ dồn vào tấm thân mỏng dòn...để ngang qua đó vươn tới Thiên Chúa theo gương Đức Kitô đã đi con đường thập giá trong hy vọng, vừa đi từ trong chính hiện sinh con người tới Thiên Chúa với những cuộc chiến nội tâm vượt qua những đêm tối. Nhưng dù sao con đường của ĐHY Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận vẫn nhẹ nhàng hơn. Còn nơi Augustinô thì quan niệm con đường phải đi từ ngoại vật vào trong tâm hồn, rồi từ trong tâm hồn mới vươn lên đến Thiên Chúa. Con đường mang tính quyết liệt hơn.
* Xem ra con người và học thuyết của ĐHY Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận rất lạc quan và tích cực hơn những gì chúng ta thấy nơi con người và học thuyết của thánh Augustinô, hẳn cũng vì những kinh nghiệm riêng tư của từng vị trong môi trường văn hóa khác nhau. ĐHY Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận thì kinh nghiệm tù đày mang tính ngoại tại tác động vào tâm hồn nhiều hơn là do những yếu tố nội tại, trong khi đó thánh Augustinô thì kinh nghiệm về tội lỗi và cuộc trở về là do tác động nội giới trong tâm hồn ngài. Sự khác biệt ấy tạo nên hai cái nhìn khác nhau: Augustinô có phần quyết liệt hơn nhưng dường như bi quan và nặng tính chất nhị nguyên ảnh hưởng của Platon, thuyết maniche và một số học thuyết khác, còn ĐHY Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận thì dựa vào mạc khải Kitô giáo qua Kinh Thánh, dùng niềm hy vọng Kitô giáo để chiến đấu với ngoại cảnh, tù đày và những đối xử của con người hơn là phải vật lộn với những yếu tố nội tại của con người mình và không bị chi phối bởi những học thuyết lệch lạc khác. Điều này làm cho con đường của ĐHY Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận có phần lạc quan tin tưởng như chính tên gọi ngài đã đặt: "Đường Hy Vọng"
Chung qui sự khác biệt giữa hai con đường chủ yếu ở hình thức và việc diễn tả, bởi nơi thánh Augustinô việc diễn tả nội tâm bằng kinh nghiệm của một cuộc trở về từ tình trạng sa đọa...còn ĐHY Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận thì diễn tả con đường của mình bằng những kinh nghiệm tù đày 13 năm với những giới hạn vô cùng bế tắc...cả hai kinh nghiệm ấy vừa tạo nên sự khác biệt cho hai con đường vừa làm nên nét chung về những kinh nghiệm của sự hạn hẹp bế tắc một thời. Hơn nữa điểm chung còn hệ tại ở đích đến là Thiên Chúa, động lực và sự trợ lực từ Thiên Chúa, đạo lý mạc khải của Kitô giáo.
c. Tác động hỗ tương
Mặc dầu có những điểm tương đồng và dị biệt nơi hai con đường dẫn tới Thiên Chúa giữa ĐHY Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận và thánh Augustinô, nhưng thiết nghĩ một phân biệt như thế chỉ nhằm mục đích giúp nắm bắt vấn đề một cách dễ dàng và sáng tỏ hơn trong tư tưởng của hai tác giả mà thôi. Còn để tìm ra một ích lợi cao hơn cho cuộc sống ngang qua hai con đường đó, thiết nghĩ cần xây dựng ở đây một tác động hỗ tương giữa hai con đường trong việc giúp con người vươn tới Thiên Chúa.
Thực vậy, không ai chối từ tầm quan trọng của đời sống nội tâm nơi con người, nhất là trong tương quan với Thiên Chúa, nó nắm giữ một vai trò quan trọng chủ chốt. Tuy nhiên, không vì thế mà ta hoàn toàn loại bỏ những yếu tố của cuộc sống nhân sinh, chẳng hạn như những lời khuyên cụ thể mang tính lạc quan cho một bậc sống, một sự dấn thân sau khi đã chìm ngập đời nội tâm v.v..
Như vậy, ở đây khi kết nối giữa hai con đường trong việc tìm đến với Thiên Chúa, chúng ta sẽ có một con đường hoàn hảo hơn. Con đường đó vừa bao gồm những gì ở bên ngoài ta, vừa gồm cả chính nội tâm con người, nghĩa là vừa sống chiều kích hướng thần vừa sống chiều kích nhập thế một cách lạc quan. Con đường đó vừa nói lên những cố gắng thực sự của cuộc hiện sinh con người trong việc tìm đến với Thiên Chúa, vừa cộng tác với ơn thánh từ Thiên Chúa trong tâm hồn con người để họ khao khát và tìm đến với Ngài không ngơi nơi cuộc sống hằng ngày.
Xét cho cùng, con đường nội tâm sẽ là nền chắc cho con đường hy vọng vươn tới Thiên Chúa và ngược lại con đường hy vọng vươn tới Thiên Chúa sẽ là bảo chứng cho một đời sống nội tâm. Cả hai hòa quyện thành một, không thể tách rời trong việc tìm Chúa. Trong niềm hy vọng có nội tâm và trong nội tâm có niềm hy vọng.
2. Áp dụng vào đời sống tu
Phải chăng ta tìm thấy ở đây cái ý tưởng tương đồng giữa việc chiêm ngưỡng Thiên Chúa, với niềm hy vọng vươn tới Thiên Chúa nơi hai con đường mà ta đã đề cập trên của ĐHY Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận và thánh Augustinô?
Thật vậy, có thể nói con đường vươn tới Thiên Chúa nơi ĐHY Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận và nơi thánh Augustinô như là khởi điểm dẫn đến việc chiêm ngưỡng Thiên Chúa là đích đến. Nhưng thử hỏi làm sao ta có thể vươn tới đích điểm nếu chưa bắt đầu từ khởi điểm và tiếp tục trên con đường đã khởi hành.
Chính trong logic đó mà thiết nghĩ ở đây việc áp dụng con đường hy vọng và con đường nội tâm vào trong đời sống tu là một điều hoàn toàn khả thi.
a. Con đường hy vọng
Thực vậy, nếu thập giá là một biểu tượng có khả năng vạch cho ta thấy huyền nhiệm và muốn nói lên “cái vô cùng”, thì trong đời sống tu ta sẽ gặp được rất nhiều biểu tưởng có thể vạch cho ta thấy “Cái Vô Cùng” đó (thấy Thiên Chúa ). Tuy nhiên, ở đây xin được giới hạn vấn đề qua ba yếu tố liên quan trực tiếp đến đời tu:
* Tình huynh đệ cộng đoàn
Khi nói đến tình yêu huynh đệ theo sát nghĩa là ta nghĩ đến tình anh em ruột thịt. Ấy vậy mà trong một cộng đoàn tu với số lượng đông và các thành viên từ khắp nơi quy tụ về; họ khác biệt nhau về rất nhiều điều: từ môi trường sống, kẻ thì từ nông thôn, kẻ thì ở thành thị…rồi về tính tình, văn hoá, nếp sống mỗi nơi mỗi khác nhau…Thế nhưng họ vẫn sống yêu thương chân thành, nhiều khi còn hơn cả ruột thịt. Vậy cái gì đã tạo nên điều đó, nếu không phải là một Đấng Siêu Việt mà họ luôn hướng về, Đấng đó ở trên mọi người và ở giữa mọi người, nhờ đó mà tình huynh đệ được gắn bó keo sơn…như vậy niềm hy vọng nối kết giữa họ với nhau cho mục đích cùng hướng về Thiên Chúa.
* Tuân giữ các lời khấn
Khi bước lên tuyên khấn là người tu sĩ ý thức mình sẽ hoàn toàn thuộc về Thiên Chúa và từ đây mình không còn quyền làm chủ trên bản thân mình nhưng hoàn toàn tuân theo thánh ý Chúa qua những người phụ trách. Điều này xem ra hoàn toàn phi lý và đi ngược lại với chủ trương đề cao nhân vị, nhất là đặc tính chủ thể. Mặc dầu vậy, qua kinh nghiệm thực tế ta vẫn thấy đời sống của các tu sĩ vẫn rất quân bình, không có gì là đánh mất chính mình cả. Nhiều khi lại là mẫu mực nữa. Thế thì điều đó nói lên cái gì nếu không phải là có một cái gì siêu vượt trên những cái bình thường hữu lý của đời này. Đó là “Đối Tượng” mà suốt đời tu sĩ tìm kiếm: Thiên Chúa siêu việt. Niềm hy vọng như thế khả dĩ giúp tu sĩ vượt qua những thách đố của các lời khấn cho mục đích vươn tới Thiên Chúa trong hân hoan và tự nguyện hiến dâng.
* Tuân giữ luật dòng
Điều đáng nói nhất ở đây là các tu sĩ giữ luật với tinh thần hoàn toàn tự nguyện chứ không vì bắt buộc. Khác với ngoài xã hội, nhiều khi người ta tuân giữ luật vì áp lực xã hội, quyền bính thế tục, còn tinh thần tự giác thì rất kém. Vậy động cơ nào đã hun đúc lòng tự nguyện tuân giữ luật nơi các tu sĩ? Các tu sĩ luôn ý thức mình sống dưới sự điều khiển của một Đấng Siêu Việt trên mình. Chính vì vậy mà họ tự nguyện sống dưới những dây ràng buộc để trong những gì hạn hẹp, với niềm hy vọng họ sống thân tình với Thiên Chúa: "lòng kề lòng Ta thổ lộ tâm tình với nó" (Gr 3,16). Họ là những chứng nhân sống động. Cuộc sống họ là một sự vươn lên không ngừng, và tất cả sự vươn lên đó đều hướng về Thiên Chúa mà thôi. Luật nhiều nhưng vui vẻ hiến dâng vì có Chúa là hy vọng sống động.
Phân tích vài ba điểm trên, ta đã thấy rõ "niềm hy vọng" trong đời tu, là những dấu chỉ hữu ích soi đường cho người tu sĩ trên đường vươn tới Thiên Chúa. Sau đây là một vài áp dụng con đường nội tâm nơi thánh Augustinô vào trong đời sống tu.
b. Con đường nội tâm
Con đường nội tâm nơi thánh Augustinô là một kinh nghiệm đầy “xương máu” nhưng cũng rất “quý báu” của một kiếp làm người. Với bao tiếng ồn ào náo động của thời buổi văn minh kỹ thuật số, thời buổi của nền kinh tế thị trường, thời buổi của những sự ăn chơi hưởng thụ để trải nghiệm những cảm giác mạnh v.v.. thì liệu các tu sĩ ngày nay có còn thấy được cái gì hữu ích và cần thiết nơi đời sống nội tâm nữa không? Bởi đó là một cách sống âm thầm, kín đáo, ngược với thái độ thích phô trương của con người thời đại.
Nhưng thiết nghĩ, khoảng cách từ cuộc đời ăn chơi trụy lạc cho đến những kinh nghiệm nội tâm của thánh Augustinô là một lời chứng có sức thuyết phục hơn cả. Thực vậy, qua cuốn Tự Thuật ta biết được Augustinô ăn chơi đâu thua kém gì thanh niên thời đại ngày nay, có khi còn mạnh hơn…Nhưng cuối cùng ngài phải thú nhận rằng chỉ có Chân Lý ở trong nội tâm con người mới làm thoả mãn được những khát vọng sâu xa nơi thẳm cung lòng người mà thôi.
Do đó, dù bị cuốn hút vào những xu thế của thời đại, nhưng kinh nghiệm của các bậc đàn anh đi trước trong đời tu để lại đều cho thấy: "mọi sự là phù vân", chỉ có việc sống kết hợp với Chúa mới là quan trọng nhất. Nhưng việc kết hiệp với Chúa luôn hệ tại ở nội tâm. Do đó đời sống nội tâm chính là con đường hữu hiệu đưa ta đến với Chúa.
Tuy nhiên, để đi vào đời sống nội tâm, mỗi người tu sĩ đều phải cố gắng tập luyện và khổ chế rất nhiều chứ không phải là chuyện đơn giản. Nhất là phải cầu xin ơn Chúa trợ giúp, vì tự bản chất nơi nhiều con người có tính hướng ngoại, nên cần phải có những điều chỉnh và thực hành thích hợp trong đời sống, trong các mối tương quan giữa mình với người khác, với công việc hằng ngày...để việc đi vào đời sống nội tâm được dễ dàng hơn. Và những điều đó ta có thể ôn lại nơi những kinh nghiệm thực hành của thánh Augustinô mà ta đã đề cập ở phần trước như là mẫu gương trong việc kết hiệp với Chúa.
Cuộc sống của người tu sĩ phải làm sao để chứng nghiệm và thể hiện cho người khác biết về giá trị của một đời sống nội tâm luôn luôn vẫn còn cần thiết và cấp bách cho hết thảy những ai muốn biết rõ về chính mình và nhất là những ai luôn muốn hướng về những giá trị cao cả và lý tưởng của cuộc sống này. Thế mà chúng ta biết, những giá trị cao cả và lý tưởng đó chỉ có thể đạt được toàn vẹn nơi Thiên Chúa mà thôi. Do vậy mà con đường nội tâm vẫn mãi mang tính chất thời đại cho hết mọi người.
Kết luận
Sống làm người mà không có một mục đích nào thì quả là vô nghĩa, không đáng sống. Sống có mục đích là biết đặt vấn đề về cuộc sống, nhất là về chính bản thân mình. Có vô vàn vấn đề cần được đặt ra như: cuộc đời này có ý nghĩa gì? Con người sẽ đi về đâu? Làm sao đạt được những lý tưởng cao cả...? Nhưng đặt vấn đề mà không chịu đi tìm giải pháp là ảo tưởng, đi tìm mà không có lòng khao khát nung nấu thì bế tắc. Người khao khát đi tìm sẽ gặp, gặp rồi thì như "Mặt Trời Chân Lý chói qua tim" (Bài thơ Từ Ấy, nhà thơ Tố Hữu).
Trong ý nghĩa đó, chúng ta thấy ĐHY Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận và thánh Augustinô, mỗi người một thời đại, một cách sống, dưới một nền văn hóa cách xa nhau cả mười mấy thế kỷ, nhưng cả hai đều đã tìm được cho mình một con đường để vươn tới điều có ý nghĩa nhất cho cuộc đời con người là: Thiên Chúa. Đó cũng là cội nguồn và căn nguyên mà con người cần tìm về.
Thật là ý nghĩa vì hai con đường mang hai nét đặc trưng khác nhau nhưng lại cần thiết bổ túc cho một đời người trên con đường tìm về với Thiên Chúa. Nơi ĐHY Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận là con đường hy vọng. Như các tổ phụ trong Cựu Ước sống niềm hy vọng vào một Thiên Chúa, một miền đất hứa "tràn trề sữa và mật" thì ĐHY Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận đã sống niềm hy vọng vào Đức Kitô tử nạn và phục sinh đồng thời mong chờ Người đến trong vinh quang để ở đời này đã cùng chia sẻ đau khổ thập giá với Người thì cũng được thông chia phần vinh phúc với Người: Anh em sẽ được gấp trăm ở đời này và đời sau (X. Lc 18,28-30).
Như vậy, con đường hy vọng có đối tượng là Đức Kitô, có bảo chứng là lời hứa, có lý do là lời mời gọi hưởng hạnh phúc và lời mời gọi làm cho người khác hạnh phúc, có động lực là tình yêu Đức Kitô thúc bách, có phương thế là sống Tin Mừng, sống tin yêu, sống giây phút hiện tại, sống khó nghèo và cầu nguyện, có mẫu gương là Đức Kitô và Mẹ Maria. Cuối cùng Đức Kitô cũng chính là Con Đường Hy Vọng duy nhất đưa con người về cùng Cha.
Đặc biệt chính trong những cảnh ngộ bi đát của cuộc đời, con người mới cần sống và xây dựng cho mình một con đường hy vọng để đời người có được lối thoát: "cùng tắc bị, bị tắc biến, biến tắc thông". Cũng trong cảnh ngộ ấy, con người được chia sẻ thập giá với Đức Kitô và niềm hy vọng thúc bách con người vươn tới Thiên Chúa ngay trong đời sống hiện tại, chứ không phải ở những nơi xa vời và viễn vông. Tư tưởng này thật là một thức tỉnh để con người nhớ rằng: có thể đạt tới hạnh phúc viên mãn ngay từ đời này khi con người không ngừng hướng tới Thiên Chúa trong sinh hoạt hằng ngày, trong những nghịch cảnh của cuộc sống: giới hạn, sa ngã, thất bại...Nhờ đó, con người tìm thấy ý nghĩa đích thực trong tương quan với Thiên Chúa.
Còn thánh Augustinô thì tiến sâu hơn khi gửi cho con người một phương thế hữu hiệu khả dĩ giúp sống chiều sâu, có niềm xác tín hầu luôn vững vàng trong cuộc sống. Thật vậy, nếu con người chỉ chạy theo những sinh hoạt bên ngoài mà không đi vào chiều sâu nội tâm thì một lúc nào đó khi sóng gió cuộc đời ập vào thì họ khó mà đứng vững. Vì vậy khi dừng lại đối diện với chính mình và đối diện với Thiên Chúa: "Xin cho con biết con, xin cho con biết Chúa", con người mới thực sự có cơ hội nhận ra chân tướng đích thực của mình, để rồi từ đó biết điều chỉnh và định hướng con đường mình đi sao cho phù hợp và có thể đi đến đích điểm hạnh phúc của đời mình nơi Thiên Chúa.
Nếu đời sống của những người bình thường đã phải hướng đến những gì cao cả khi họ sống có trách nhiệm với chính mình thì cuộc sống của những người tu hành lại càng phải gia tăng nồng độ hơn gấp bội, bởi một người chân tu thì cần phải đạt đến chỗ chiêm ngưỡng Thiên Chúa mỗi ngày. Muốn đạt đến đích điểm ấy luôn luôn cần áp dụng một trật hai con đường hy vọng và nội tâm. Sống như vậy là đã bắt gặp được con đường vươn tới Thiên Chúa, bởi lẽ "Chấm này nối tiếp chấm kia, ngàn vạn chấm thành một đường dài. Phút này nối tiếp phút kia, muôn triệu phút thành một đời sống. Chấm mỗi chấm cho đúng, đường sẽ đẹp. Sống mỗi phút cho tốt, đời sẽ thánh. Đường hy vọng do mỗi chấm hy vọng. Đời hy vọng do mỗi phút hy vọng."
SÁCH THAM KHẢO
Kinh Thánh Trọn Bộ Cựu Ước và Tân Ước, nhóm CGKPV dịch, Nxb Thành Phố Hồ Chí Minh 1998.
Kinh Thánh Tân Ước, bản dịch và chú thích có hiệu đính của nhóm CGKPV, Nxb Tôn Giáo Hà Nội 2008.
Sách Giáo Lý Của Hội Thánh Công Giáo, bản dịch của Ủy Ban Giáo Lý Đức Tin trực thuộc Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, Nxb Tôn Giáo Hà Nội 2011.
Saint Augustinô, Tự Thuật - Les Confessions, bản dịch Tiếng Việt, Nxb Tôn Giáo 2007.
Saint Augustinô, De Vera Religione (về tôn giáo chính thống), xuất bản năm 388, trình bày về tín ngưỡng và tri thức.
Saint Augustinô, Soliloquia (tự niệm), viết năm 386, nói tới những cuộc đàm thoại về tri thức, chân lý, minh triết và bất tử.
Saint Augustin, Le Maitre - Le libre arbitre, Paris Institut D'Études Augustiniennes 1993.
Saint Augustin, La Cité de Dieu, Paris Institut D'Études Augustiniennes 1994.
Marcel Neusch, Augustin Un chemin de conversion, Desclée De Brouwer 1986.
Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI, Thông Điệp Spe Salvi, bản dịch Việt Ngữ của VietCatholic Network: Lm Gioan Trần Công Nghị, Lm Gioan Thiên Chúa Phan Du Sinh (OFM), Ks Gioan Baotixita Đặng Minh An, Gs Gioan Bùi Hữu Thư.
ĐHY Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận, Đường Hy Vọng dưới ánh sáng Lời Chúa và Công Đồng Vaticanô II, Spes-Divine Compassion Publications 1991.
ĐHY Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận, Đường Hy Vọng, không nhà xuất bản, không năm xuất bản.
ĐHY Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận, Chứng Nhân Hy Vọng, Vatican 12 – 18 tháng 3 năm thánh 2000.
ĐHY Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận, Năm Chiếc Bánh Và Hai Con Cá, không, không.
ĐHY Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận, Suy Tư Và Cầu Nguyện, Tủ sách Muối Đất Định Hướng Tùng Thư xuất bản, 1999.
Bonchenski, Triết Học Tây Phương Hiện Đại, Tuệ Sỹ dịch, Ca Dao xuất bản lần 1 – 1969.
Alexis Brsul – Noel Rath, Đời Tu – Một Trong Những Con Đường Dẫn Tới Hạnh Phúc, Nxb Cerf – Paris 1987 (Trích bản dịch Tiếng Việt).
Tư Cù, Lịch Sử Triết Học Tây Phương, Tập II, III và Thời Hiện Đại, (Lưu hành nội bộ).
|
|