(tiếp...)

CHƯƠNG 15 THANH LUYỆN CÁC ĐAM MÊ III


THÓI XẤU LIÊN QUAN
ĐẾN KIÊU CĂNG TỰ PHỤ

7. KIÊU CĂNG
Các đam mê kiêu căng và tự phụ có họ hàng gần gũi. Chúng tấn công linh hồn từ nhiều đam mê khác nhau như đã nói, bởi sau khi các thói xấu khác đến, chúng sẽ đi vào hình ảnh.
Tính khoe khoang nằm ở bề mặt nhiều hơn tính tự phụ, nhưng nó rất độc hại đồng thời là cửa ngỏ cho những thói xấu nguy hiểm đi vào, đó là một tội thuộc tinh thần. Có một loại kết nối giữa hai đam mê này – rất khó để phân định chính xác giữa chúng, nhưng không quan trọng.
Vì chỉ được bộc lộ bằng lời phù phiếm, nên phải phô trương, cần có những vẻ bên ngoài được nhiều con mắt khác khâm phục, thường được ngụy trang dưới sự thiếu thốn những giá trị sâu xa hơn rằng đó thực sự là khát vọng chính đáng. Sự khoe khoang là một loại “xông hương” ẩn trong một nội tâm trống rỗng và trong một con người tự đắc, vạch trần một nhu cầu để cho tư tưởng được sạch – ít nhất là ở mức độ bên ngoài – dù người ấy khó có thể phỉnh gạt bởi điều này.
Sự khoe khoang của con người được nuôi dưỡng bằng tất cả những gì dối trá. Nó hoạt động nơi một thách đố dễ dàng và một tâm hồn xảo quyệt, ở đó sự nhạo báng pha lẫn với thói khinh thị, nó tìm sự hậu thuẫn nhờ phô trương hơn là công trạng thực sự.
“Tin là điểm chung của người Pháp. Một người không muốn quan trọng hóa mình. Nhưng cũng là bình thường thôi; một nét riêng của người Pháp. Sự khoe khoang dại khờ này thuộc về riêng chúng ta, người Tây Ban Nha ngoài kiêu căng, còn ồn ào nữa. Bởi vậy sự tự phụ của họ đối với tôi nằm ở một từ, đúng là dốt nhưng không đến nỗi là không có lý.”[1] (Bài thơ La Fontaine)
Tư Tưởng
“Thần khí kiêu căng là xảo quyệt nhất vì nó luôn sẵn sàng đi vào những con người thực hành nhân đức. Nó dẫn họ đi vào khao khát thực hiện những chiến công hiển hách được mọi người biết đến, tìm kiếm lời khen ngợi của thiên hạ. Đến giờ nó dẫn đưa họ nối lại mộng tưởng với những người phụ nữ, hoặc tới việc lắng nghe những âm thanh thích thú giống như tiếng la hét của quỷ hay hình ảnh đám đông dân chúng chạm vào tua áo của họ. Thần khí này còn hứa hẹn họ được làm thầy tu. Rằng có nhiều người đến gõ cửa, tìm gặp họ. Nếu đan sĩ không sẵn sàng thỏa hiệp với đòi hỏi của chúng thì người ấy bị hạn chế lại và bị tách biệt. Theo đó, người ấy đạt tới tầm mức cao nhờ niềm hy vọng hão huyền thì con quỷ ẩn mình vào đó và người ấy phải tháo lui để rồi bị con quỷ tự phụ hoặc con qủy buồn phiền cám dỗ, chúng deo vào lòng người ấy những tư tưởng mâu thuẫn với niềm hy vọng của người ấy. Cũng xảy ra trong thời điểm này là có người trong thời gian ngắn trước đó là một thầy tu thánh thiện, nay lại khơi mào cho sự bất toàn rồi được giao nộp vào tay con quỷ ô uế, để mặc nó gieo rắc.” (Evagrius, Praktikos,13).

Hình Thức
- Sự khoe khoang về thể chất, những thuộc tính khả dĩ thấy được ví dụ như cái đẹp thể lý.
- Sự khoe khoang về những món quà thiêng liêng.
- Sự kiêu căng sinh ra từ nhân đức ngay như một người đã thoát khỏi nó.
- Sự khoe khoang đâu đâu cũng có. Nó cầm giữ nhiều hình thức, một số hình thức trong đó đã thấm nhập cách tinh vi (trên tất cả các nam nữ đan sĩ), đôi khi thật buồn cười (từ những ánh mắt của con người tự cao tự đại, tự đưa mình vào mức độ trầm trọng). Đây là một vài đoạn văn minh chứng điều ấy. Cassian đã chỉ trích về những tập sinh của các “Linh Phụ Sa Mạc”:
“Những người khai tâm và những ai chỉ thăng tiến một cách xoàng trong đạo lý và tri thức thì không thoát khỏi thói kiêu căng được. Giọng hát của họ có thể là một cái cớ để họ tự thổi phồng mình lên – giọng hát thánh ca của họ du dương chừng nào! – hay điều kiện xấu của họ hay hình dáng cao thượng của họ; hay sự giàu sang của cha mẹ họ, hay họ đã khước từ đời sống quân ngũ và những địa vị cao trọng.
Đôi lúc nó cũng thuyết phục họ rằng nếu như họ ở ngoài thế gian họ sẽ sớm được giàu sang và có chức quyền, mà sự thật chẳng bao giờ có được bảo đảm như thế. Họ trở nên tự mãn với niềm hy vọng hão huyền, niềm hy vọng này rơi vào những ước mơ phù du chóng tàn, và họ bắt đầu tự cao tự đại trên những gì họ chẳng bao giờ có được như thể là họ đã từ bỏ chúng.” (Institutes,XI,13).
Và hơn nữa:
“Nếu con quỷ (ban trưa ) không thể làm cho người ấy tự đắc bằng lối ăn mặc đúng đắn và lịch sự thì nó cũng gợi ý để người ấy mặc áo Dòng thiệt bẩn, lôi thôi lếch thếch và kém giá trị; nếu như nó không thể chiếm đoạt người ấy bằng sự khoe khoang thì nó chiếm đoạt người ấy bằng sự khiêm tốn; nếu như nó không thể khiến người ấy vênh vang nhờ kiến thức và tài hùng biện thì nó sẽ đưa người ấy tới sự tiếc nuối cô tịch của mình. Nếu một người đan sĩ ăn chay trước mặt người khác thì người ấy bị cám dỗ phô trương sự hy sinh của mình; nếu người ấy ăn chay cách thầm kín và khing miệt thói phô trương thì nó sẽ chống đối người ấy đủ mọi cách. Người ấy tránh xa việc kéo dài những giờ cầu nguyện của mình trước mặt anh em đồng tu trong Dòng để thoát khỏi tính phô trương: nhưng khi người ấy làm như thế trong thầm kín mà không ai nhìn thấy thì điều này cũng trở thành vũ khí chiến đấu của sự kiêu căng.” (Institutes,XI,4).
Các Linh Phụ quả chí lý khi so sánh thói xấu này với một ý kiến:
“Mọi lúc bạn bóc đi một lớp thì lại có các lớp khác và khi bạn hủy bỏ cái tiếp theo, thì vẫn xuất hiện cái tiếp nữa.” (Institutes, XI,5).
- Gần thời đại chúng chúng ta (thế kỷ 20) có Hoàng tử nhỏ của thánh Exupéry, người đã du hành qua các vì sao. Khi đến hành tinh thứ hai ngài đã nhìn thấy một con người tự cao tự đại...Hành tinh thứ hai được một người đàn ông kiêu căng tự phụ sống.
“A ! A ! Tôi sẽ đón nhận một người ngưỡng mộ đến thăm tôi !” Từ xa người ấy reo lên khi lần đầu người ấy bắt gặp Hoàng tử nhỏ. Vì đối với những người kiêu căng tự phụ thì người khác đều là những người ngưỡng mộ họ. Hoàng tử nhỏ nói: “chào buổi sáng”. “Đó là một chiếc mũ ngài đang đội.”
Người kiêu căng tự phụ trả lời: “đó là chiếc mũ thay cho lời chào”. “Nó dùng để nâng lên trong cung cách chào khi người ta muốn hoan hô tôi. Đáng tiếc thay chẳng ai dùng cách này.” Không hiểu người kiêu căng đang nói gì, nên Hoàng tử nhỏ nói: “vậy sao?”.
Người đàn ông kiêu căng giờ lại tự cho rằng “vỗ tay là khiêu khích người khác”. Hoàng tử nhỏ vỗ tay. Còn người đàn ông kiêu căng đã nâng mũ mình lên để chào.
Hòang Tử nhỏ tự bảo rằng: “sự tiếp đón này hơn cả một vị vua”. Và hoàng tử bắt đầu vỗ tay một lần nữa, như một sự khiêu khích người khác. Người đàn ông lại nâng mũ lên để chào.
Sau năm phút của bài tập này hoàng tử nhỏ đâm ra mệt mỏi với trò chơi đơn điệu này.
Hoàng tử đặt vấn nạn: “vậy người ấy nên làm cái gì để chiếc mũ được hạ xuống?”
Nhưng người đàn ông đã không nghe theo. Những người kiêu căng không bao giờ nghe cái gì ngoài lời khen. Người ấy hỏi hoàng tử rằng: “ngài thực sự ngưỡng mộ tôi nhiều lắm phải không?”.
‘“Ngưỡng mộ” –nghĩa là sao?’
“Ngưỡng mộ có nghĩa là ngài coi tôi là người đàn ông đẹp nhất, phong độ nhất, giàu có nhất, thông minh nhất hành tinh này”.
“Nhưng ngài là người đàn ông duy nhất trên hành tinh của ngài !”.
“Hãy làm cho tôi điều thân ái này là chỉ ngưỡng mộ mình tôi.”
“Hoàng tử nhỏ nhún vai trả lời cách qua loa: “tôi ngưỡng mộ ngài”, “nhưng có gì để quan tâm ngài nhiều như thế?”
Và hoàng tử nhỏ đã bỏ đi.
Người ấy đang tự nói với mình đang khi vẫn tiếp tục hành trình[1] của mình: “sự trưởng thành chắc chắn là dư thừa”

Phương Dược
- “Tôi nhìn thấy con quỷ kiêu căng bị gần như tất cả các con quỷ khác xua đuổi và khi bị ngã xuống, thì một cách vô liêm xỉ, chúng kéo lại gần và mở ra một danh sách dài về các nhân đức của mình” (Evagrius, Praktikos,31).
- Nguy hiểm là sự kiêu căng lớn dần theo nhân đức. Sự nỗ lực khổ chế không thể trục xuất nó, hơn nữa nhiều lúc còn gia tăng sự kiêu ngạo. Chỉ có ánh sáng chiêm niệm và kinh nghiệm bền vững về Thiên Chúa mới có thể giải thoát chúng ta khỏi những gì thuộc về thế gian và sự hư ảo của chúng. Chỉ có người đã được cảm nếm Thiên Chúa thì mới không tìm kiếm vinh quang nào ngoài vinh quang trong Ngài. Hơn nữa, người ấy còn có kinh nghiệm Chúa Kitô sống trong mình (Gl2,20) đồng thời nhân đức chỉ có trong Chúa Kitô.
- Chúng ta đừng bao giờ làm bất cứ điều gì để được người khác nhìn thấy và để cho người ta khen. Đó là điều mà người Pharisêu đã làm (Mt 23,5;6,1-6). Hãy làm mọi sự cho vinh quang và tình yêu của một mình Thiên Chúa trước nhan[1] Người.
- “Các ông tôn vinh lẫn nhau và không tìm kiếm vinh quang phát xuất từ Thiên Chúa duy nhất, thì làm sao các ông có thể tin được?” (Ga5,44).
- Đối với phương dược mang tính tổng hợp hơn thì thường dùng cho những người có tính tự phụ.
8. TỰ PHỤ
Tư Tưởng
“Con quỷ tự phụ là nguyên cớ độc hại nhất làm cho linh hồn sa ngã. Vì nó cám dỗ đan sĩ khước từ Thiên Chúa là Đấng phù trợ mình và xem chính mình là nguyên nhân của mọi hành động nhân đức. Xa hơn, người ấy có một cái đầu lớn trong cái nhìn về anh em đồng môn, người ấy xem mọi người là ngu dại bởi vì đã không có cùng ý kiến như người ấy.
Sự giận dữ và buồn phiền đi theo sát gót chân của con quỷ này và sau cùng nó đi vào chuỗi những tệ nạn lớn nhất – sự rối loạn tâm lý (ekstasis!), hợp với những lời lảm nhảm hoang dại và những ảo giác của cả tập thể quỷ ở dưới bầu trời.” (Evagrius, Praktikos,14).
Hình Thức[1]
Chúng ta cần phân biệt giữa sự kiêu căng theo bản năng của chúng ta, sự kiêu căng hống hách và sự kiêu căng thiêng liêng.

A. Sự Kiêu Căng Hống Hách:
Đây là một mục tiêu chắc chắn của nhiều khuynh hướng công kích vốn không tìm thấy điều gì để chống lại ai đó hay tài sản của họ, nhưng hơn thế nữa còn tạo ra một vị trí cao hơn đối với ai đó, áp đặt lên họ bằng sức mạnh nếu thấy cần thiết nhưng không hẳn nhất thiết phải nhờ đến sức mạnh. Đây sẽ là sức mạnh và là sự chi phối của người khác khiến lộ ra gốc rễ của sự kiêu căng, chính sự quan tâm của nó là tuyệt đối và nó ưu tiên chính nó trên hết. Bởi lẽ tính kiêu ngạo nằm trong sự tàn nhẫn của con người muốn thống trị người khác và cả thế giới.
Óc quyền lực được đặt trên bản năng thú tính của thứ bậc xã hội để rồi thúc ép một cá nhân trong tập thể tìm kiếm địa vị ban đầu bằng việc đe dọa sự yên ổn. Địa vị thống trị còn được tái thiết bao lâu nhờ vào sự phô trương cách tinh vi cũng như bằng sự xung đột trực diện, bằng ngôn ngữ thân thể thì một tiếng chọn lựa sẽ trấn áp sự đáp trả…
B. Sự Kiêu Căng Thiêng Liêng:
Sự kiêu ngạo đóng vai trong cuộc chiến dành sự thống trị phân biệt với ý muốn quyền lực, ngay cả sự khiêm tốn và mềm dẻo, đối nghịch với sự kiêu căng cũng khác với sự ngoan ngoãn và vâng phục. Sự kiêu ngạo là một tội thuộc về tinh thần hơn là một sự thúc đẩy bản năng. Một người nào đó có vẻ rất tự hào với lớp vỏ của sự khiêm hạ và không có ý muốn áp đặt ý muốn mình trên người khác – để lại trong trí tưởng tượng ngang qua sự bồi bổ những chứng hoang tưởng tự đại. Điều ấy đủ để nhiều người tin rằng mình hơn người khác trên hết, kiêu ngạo luôn có một ý tưởng tự thổi phồng mình lên.
Điều này không thể lẫn lộn sự tôn trọng khách quan, hay một sự ganh đua xứng hợp, bao gồm cả lòng khao khát sự trưởng thành của bản tính con người. Cũng không loại trừ lòng quảng đại tinh thần để rồi khao khát những gì lớn lao. Không loại trừ một sự làm cao[1] do rối loạn thần kinh chức năng hướng về một mục đích có thể tha thứ được khi nó xuất phát từ một sự thất vọng trong tính dễ xúc động. Tự phụ là ý muốn một cách trái phép quy mọi công trạng dù thật hay không, cho chính mình. Trên thực tế, mọi ân ban của chúng ta – Lời Chúa nói – đều xuất phát từ Thiên Chúa. Chúng ta chỉ là những trung gian, có nhiệm vụ chuẩn bị cho tốt một sự đáp trả dựa trên số vốn chúng ta đã nhận được. Chúng ta không phải là những ông chủ. Sự tự phụ tự ti trong mọi sự hay coi mọi sự là xứng đáng thuộc về nó. Sau hết nó chiếm hữu vị trí Thiên Chúa. Đây là một cuộc nổi loạn của thần Prômêtê thuộc thuyết vô thần hiện đại. Nó được quảng diễn trong non serviam (không phục vụ) để khước từ vâng phục Thiên Chúa.
Ở một mức độ nào đó, những giá trị mà chúng ta có được không thể không nhờ đến sự trợ giúp của người khác, từ những môi trường xung quanh như xã hội, gia đình, chúng ta tháp nối vào mình một sự phong phú của sự tiến bộ và văn hóa được các thế hệ đi trước tài bồi.
Sự kiêu căng là một loại mù quáng chỉ có thể nhìn thấy sự thèm muốn về cảm giác đã qua của nó về những lệnh truyền cao quý.
Nhưng chắc chắn sự kiêu căng nguy hiểm nhất đối với đan sĩ là sự kiêu căng thiêng liêng, nó làm cho đan sĩ thấy nguồn gốc của những hành động tốt lành, thực hay ảo, về chính mình. Nó làm cho đan sĩ đổ vỡ về nhân đức và sau cùng nó nói với các linh phụ về sự cuồng loạn (một gương xấu của Nietzsche xuất hiện trong tâm trí). Tự phụ là một sự lệch lạc nghiêm trọng trong suy nghĩ đúng đắn, một sự loại trừ trật tự mọi sự. Kinh nghiệm tối đa của nó chỉ có thể là sự cuồng loạn; trên thực tế, nó khó mà tiến xa hơn được.
Phương Dược
“Hãy nhớ lại đời sống trước đây và những tội trong quá khứ của bạn đồng thời dù bạn đã bị các đam mê trói buộc thì làm sao bạn lại thờ ơ với lòng nhân hậu của Chúa Kitô. Hãy nhớ rằng bạn đã rời bỏ thế gian hèn hạ và nhiều chuyện rắc rối đã kéo bạn xuống thấp. “Hãy phản tỉnh (như lời Chúa Kitô): Nơi sa mạc, ai sẽ bảo vệ bạn? Ai sẽ trừ con quỷ đang muốn nghiền nát bạn?” Chính những tư tưởng một cách tiệm tiến sẽ làm cho thấm nhuần sự khiêm tốn trong chúng ta và sẽ ngăn chặn con quỷ kiêu căng xâm nhập chúng ta”. (Evagrius, Praktikos,33).
- Kẻ thù của kiêu căng là khiêm nhường. Khiêm nhường là sự quân bình nhất và xua tan sự hư ảo vốn mở đường cho sự kiêu ngạo. Tính vị kỷ của nó thì không khốc liệt và tố cáo, nhưng quân bình và thực tế. Nó là một khả năng phán đoán về những khuynh hướng, là một khả năng phán đoán về những công bằng đích thực. Thấy được sự triển nở vô biên của Nước Trời và tình yêu chịu đóng đinh vào Thánh Giá, nó biết mình vô dụng và đang ở xa đích. Nó không đòi hỏi gì hay đeo mặt nạ, cả cho chính mình lẫn người khác. Nó sống như những gì mình có. Đó là sự thật.
- Bởi vì khiêm nhường không thể đạt được một cách trực tiếp nhờ sức mạnh khổ chế nên tốt nhất là tập chú sự nỗ lực của mình bằng cách sống thật và đạt được nhờ biết rõ về chính mình. Sự thật này sẽ cư ngụ trong chúng ta khi có một sự thấu hiểu chắc chắn về sự hư vô của chúng ta và lệ thuộc hoàn toàn vào Thiên Chúa, coi Người là tất cả trong ánh sáng đức tin và chiêm niệm. Chúng ta hãy sống và yêu trong sự thật này đồng thời điều này là khả thi khi chúng ta tin tưởng vào tình yêu Thiên Chúa.
- Mọi sự là ân ban của Thiên Chúa. Vì là ân huệ nhưng không nên nỗ lực cá nhân chúng ta không thể làm cho tâm hồn thanh khiết. Đó là một quà tặng của ân huệ thiêng liêng (Gc1,17). Dĩ nhiên ân sủng không thể làm được nếu không có sự cộng tác của chúng ta. Đúng hơn, nó làm cho sự cộng tác của chúng ta nên khả thi và mang lại hoa trái nhờ nỗ lực chúng ta. Thánh Phaolô, người luôn ở trong sự ngạc nhiên, đã phải thốt lên: “Không phải tôi nhưng là ân sủng của Thiên Chúa ở với tôi” (1Cr15,10; Pl2,13). Chúa Kitô cũng đã nói trong Tin Mừng Gioan: “không có Thầy anh em không làm gì được” (Ga15,5; Tv126,1-2; Rm9,16).
- Lời Thiên Chúa hứa lớn lao đến nỗi nỗ lực của chúng ta không thể sánh ví.
- Chúng ta không chỉ thắc mắc về sự khước từ ân huệ của Thiên Chúa mà còn về việc nhận biết nguồn mạch của chúng và ca ngợi Đấng đã làm ra chúng. “Có gì mà bạn đã không nhận lãnh? Nếu đã nhận lãnh, tại sao lại vênh vang như thể đã không nhận lãnh?” (1Cr4,7). Khiêm tốn không phải là một sự gièm pha bon chen (cũng như một sự dối trá thường xuyên), nhưng là hoạt động của ân sủng, đơn sơ và vui vẻ.
Người trộm lành, David sám hối và nhiều người khác trong Kinh Thánh cho chúng ta thấy được quyền năng của ân sủng và lòng thương xót. Tôi cùng với bạn đi vào việc đọc hiểu bản Kinh Thánh bằng yếu tố này.
- Khiêm nhường thật sự không phải là một sự thật trừu tượng. Nó xuất phát từ sự thật (của Thiên Chúa, thế gian và chính chúng ta), hiện hữu cách nhẹ nhàng và đơn sơ trong tâm hồn. Không ai có thể đạt được mà không nhờ đến sự hy sinh triệt để các giá trị ở thế gian này. Đó là sự vâng phục các bề trên. Thậm chí là sự vâng phục anh chị em chúng ta nữa và bày tỏ một tình bác ái chân thành, không bao giờ làm tổn thương hay ngay cả làm phiền lòng họ. Nó kiên nhẫn chịu đựng mỗi khi gặp khó khăn và đau thương. Nó ngụp lặn trong ánh sáng của Thiên Chúa và sự sống đời đời. Xuyên suốt truyền thống, nó sinh hoa trái trong tình mến, trong niềm vui và bình an[1].
- Thánh Augustinô nói lên kinh nghiệm của mình như sau: ích lợi biết bao cho người tự hào đang rơi vào tình trạng tội lỗi tỏ tường khi họ biết tìm một phương dược chữa sự kiêu ngạo của mình. (Thành Đô Thiên Chúa, I, 14).
- Kiêu ngạo là một đam mê khó nhổ nhất. Nhưng chúng ta hãy tin tưởng rằng: điều gì chúng ta không thể thì Thiên Chúa lại làm được, hãy để Người can thiệp vào mọi sự kiện của đời sống chúng ta, vì Người cũng là Chúa của lịch sử.
“Có một sự khiêm nhường đến từ lòng kính sợ Thiên Chúa, cũng có một sự khiêm nhường đến từ tình yêu nồng cháy đối với Thiên Chúa. Hình thức thứ nhất của lòng khiêm nhường giúp chúng ta kính sợ Thiên Chúa; hình thức thứ hai của lòng khiêm nhường là cội rễ của niềm vui. Hình thức thứ nhất giúp chúng ta khiêm tốn trong mọi sự, một sự đi vào trật tự đúng trong khả năng phán đoán và một tâm hồn ăn năn thống hối mọi lúc. Nhưng hình thức thứ hai xuất hiện trong tình trạng ít sôi nổi hơn; để rồi tâm hồn được nâng lên cao và không gì có thể điều khiển được nó” (Isaac Syria, hoặc cũng có thể là Isaac Nineveh)[1].
- Người kiêu ngạo không bao giờ muốn quy phục ai. Nó cho rằng mình luôn luôn hơn người khác. Nó chỉ muốn làm theo ý riêng của mình mà thôi. Khiêm nhường quy phục Thiên Chúa; trực tiếp qua các giới răn hay gián tiếp qua những người đại diện Thiên Chúa ở dưới đất.
Hình thức bên ngoài của sự tuân phục không ảnh hưởng tới cấp độ tinh thần, tinh thần là nơi sự kiêu căng bén rễ sâu. Trên hết, khi có mối nguy bị trừng phạt, thì hoặc là sẽ vâng phục thụ động hơn là đón nhận hoặc là rối loạn và loại bỏ mọi quyền bính. Chỉ có sự vâng phục của con cái, đón nhận với con người thật một cách tự nguyện và cái nhìn trong sáng, thì mới có khả năng biến đổi lòng con người. Thêm vào đó, nhiều người trở nên thấu hiểu nhân phẩm cũng như sự thật của chính mình và đạt được thành quả tu tập, chứ ít khi họ chịu đựng việc bị đối xử thiếu tôn trọng, họ nghĩ là do quan niệm hay cảm nhận của họ và không hiểu biết gì về vị trí được giao cho họ.
- Khiêm nhường là sự quy hướng hoàn toàn về tri thức của Thiên Chúa, Đấng đã đến với chúng ta, tri thức ấy được hấp thụ xuyên qua cầu nguyện và bác ái. Tri thức của vinh quang Thiên Chúa được quang tỏa nơi dung nhan Chúa Kitô (2Cr4,6). Sự khiêm nhường của chúng ta là dung nhan Chúa Kitô được Thánh Thần của Người khắc sâu vào lòng chúng ta. Đây là lý do tại sao sự khiêm nhường không thể hiểu được; đúng hơn nó là một mầu nhiệm khôn ví. Chỉ có tình yêu Chúa Kitô nơi chúng ta mới có thể chữa được sự kiêu ngạo tự quy. Chúng ta hãy chiêm ngắm Chúa Kitô hầu chúng ta được nên giống Người: “hiền lành và khiêm nhường trong lòng”. Các linh phụ đáng kính đã đặt ra mẫu gương Chúa Kitô đối nghịch với Satan (Pl2,6-11)[1], khiêm nhường chống lại kiêu ngạo (Is14,13-14…). Vì thánh Augustinô đã quả quyết: “tình yêu Thiên Chúa thúc bách chúng ta coi thường chính mình” và “yêu mình thì chúng ta sẽ coi thường Thiên Chúa”
“Đức Giêsu Kitô là một Thiên Chúa, chúng ta có thể đến gần mà không sợ sự kiêu ngạo và trước nhan Người chúng ta có thể hạ mình mà không sợ thất vọng” (Pascal)[1].
“Biết Thiên Chúa mà không biết tội lỗi mình thì chỉ làm cho kiêu ngạo. Biết tội lỗi mình mà không biết Thiên Chúa thì chỉ làm cho thất vọng. Biết Chúa Giêsu Kitô giúp chúng ta tìm được sự quân bình, bởi lẽ nơi Ngài chúng ta tìm thấy cả Thiên Chúa lẫn tội lỗi mình.” (Pascal)[1].
“Vì chiếc áo che khuất thiên tính là đức khiêm nhường. Ngôi Lời đã trở nên người phàm, mặc lấy thân xác con người và nhờ thân xác mà Ngài nên giống chúng ta. Mỗi người đều có thân xác như Ngài, Ngài đã trút bỏ sự cao sang của mình và dấu đi sự uy nghi rực rỡ của mình đồng thời lấy đức khiêm nhường che khuất vinh quang của mình, để sự sáng tạo khỏi bị tàn lụi hoàn toàn nhờ sự chiêm niệm của Ngài.” (Isaac Syria)[1].


CHƯƠNG 16 THANH LUYỆN CÁC ĐAM MÊ IV

“Đọc sách thiêng liêng, tỉnh thức và cầu nguyện – đây là những gì tài bồi vững chắc cho tâm hồn đang lạc lõng. Đói khát, nhọc nhằn và cô đơn là những ý nghĩa giúp dập tắt những ngọn lửa thèm muốn. Cơn giận dữ dày đặc sẽ được dịu xuống nhờ hát Thánh Vịnh, nhờ lòng kiên nhẫn và sự bố thí. Nhưng tất cả những hình thức thực hành này phải được sắp đặt đúng mức và áp dụng đúng lúc. Nếu thực hành không đúng lúc hoặc không đúng mức thì vẫn có thể tồn tại nhưng chỉ được một thời gian ngắn rồi tàn lụi. Và nếu nó tàn lụi mau lẹ như vậy thì cố nhiên sẽ có hại nhiều hơn là có lợi.” (Evagrius, Praktikos, 15, p.20).
“Mưa dầm thấm lâu, bão tố chóng tàn,
Người buông trước không bằng kẻ buông sau.
Tham ăn thì chết vì ăn” (Richard II).
“Vì thế mỗi người hãy nhận diện thói xấu nào đang ám ảnh mình nhất, để rồi ưu tiên chiến đấu với nó trước và tập trung tất cả sự quan tâm xem xét tỉ mỉ xem nó sẽ tấn công vào chỗ nào. Đồng thời nên dùng tất cả mọi nỗ lực khổ hạnh để chống lại nó – ăn chay hãm mình, tỉnh thức, suy niệm, cầu nguyền và những giọt lệ thống hối. Không thể chiến thắng một đam mê nếu chúng ta không hiểu được rằng sức và nỗ lực cá nhân chúng ta có hạn, vậy nên công việc thanh luyện đòi hỏi phải tỉnh thức liên lỉ đêm ngày. Bởi vậy, chúng ta hãy nài xin Thiên Chúa để Ngài giúp chúng ta loại bỏ những cuộc tấn công của thói xấu này.” (Cassian, Conferences (đối thoại), V, 14).
Khi được cứu thoát khỏi thói xấu này, chúng ta tiếp tục chống lại thói xấu kế tiếp trong chuỗi thói xấu, điều này sẽ làm chúng ta đau đớn nhất…vv.
Tung hỏa mù với những đam mê mạnh mẽ nhất để rồi một cách tiệm tiến trấn áp những đam mê yếu hơn.
Tuy nhiên các đam mê được kết nối với nhau có hệ thống. Thật là ảo tưởng khi muốn đánh tay đôi với thói xấu lỗi đức trong sạch trong khi chưa thắng được thói tham ăn; và cũng không đánh lại được thói tham ăn nếu chưa thắng được thói xấu lỗi đức trong sạch. Phải có nỗ lực toàn diện; có thể nói, chúng ta nên gạt bỏ bất cứ đam mê nào trong khi dồn sức làm việc gì.
Một cây cổ thụ có thể bị chết nếu như bộ rễ bị chặt.
“Do đó muốn thắng được thói lười biếng thì trước tiên phải thắng được thói hay buồn phiền; muốn loại bỏ được sự phiền muộn thì phải diệt được thói giận dữ; muốn dập tắt được thói giận dữ thì phải xua trừ được thói tham lam; muốn diệt tận gốc thói tham lam, thì cần kiềm lại được thói xấu lỗi đức trong sạch; muốn diệt được thói xấu này thì cần phải loại trừ thói tham ăn.
Muốn chiến đấu một cách hiệu quả với những con quỷ thì chúng ta cần nhận ra chúng và hình thức hoạt động thường xuyên của chúng, những trạng thái tâm lý kết nối với hoạt động của các thế lực thần khí: hành động của một thần khí tốt lành sẽ cưu mang bình an; còn một thần khí xấu thì khơi dậy sự lo âu phiền muộn. Hãy vạch mặt chúng rồi chúng ta sẽ thoát khỏi quyền lực của chúng” (Evagrius, Praktikos, 43).
“Các đam mê tựa như những con chó thường rình rập ở các quầy bán thịt, chúng sẽ bỏ chạy nếu có tiếng kêu lớn, nhưng nếu người ta lơ là chúng thì chúng sẽ tấn công như những mãnh hổ. Hãy tẩy trừ mọi thèm khát dù nhỏ, để bạn không bị ngọn lửa hung dữ bủa vây” (Isaac Syria)[1].
Hãy tỉnh thức. Chúng ta hãy canh giữ cửa lòng mình, xem xét mọi tư tưởng đang kéo đến.
Một đan sĩ cần phải chống lại ngay lập tức một tư tưởng xấu bằng những nhân đức tương đương, bởi vậy phải nhờ đến sự trợ giúp của nhân đức tốt lành để cắt đứt tư tưởng xấu.
Nhưng nếu đan sĩ không có nhân đức cho đủ, thì hãy chống lại một tư tưởng xấu bằng một cách khác chứ không thể thỏa hiệp với nó (ví dụ: sự kiêu căng và lỗi tỳ ố). Chiến lược tưởng tượng: nếu chúng ta bị cám dỗ lỗi khiết tịnh thì nó sẽ bày ra một tư tưởng tự đắc, bởi “một ý tưởng sẽ tác động trên một ý tưởng khác”.
Phân tích và cụ thể hóa: xem xét tỉ mỉ lý trí đã nhận vào tư tưởng nào, chính tư tưởng, một đối tượng nhạy cảm tiếp sức cho đam mê và tạo chỗ đứng cho tội lỗi. Tư tưởng sẽ tan chảy trong lửa phân định.
Chống lại cám dỗ thể lý bằng những ý nghĩa thể lý: ăn chay, mặc quần áo đơn sơ, tỉnh thức, hát thánh vịnh.
“Hãy đề phòng! Khi ma quỷ không kiếm chác được gì trong cuộc chiến chống lại một đan sĩ thì chúng sẽ tạm lánh đi và tiếp tục rình rập xem bất cứ lúc nào người ấy có sao nhãng các nhân đức hay không. Rồi ngay lập tức chúng dồn tất cả vào điểm yếu này để tấn công và tàn phá, cướp bóc làm cho người ấy nên vô cùng khốn đốn.” (Evagrius, Praktikos, 44, p.28).
“Chúng ta đừng để con quỷ đó quật ngã, nó gieo vào tâm trí chúng ta sự phỉ báng và những tư tưởng kỳ quái làm cản bước tiến – quá hèn hạ không đáng nhắc tới. Chúng ta cũng không để nó làm cho chúng ta ra mù quáng bằng những cơn giận vô cớ. Hãy nhớ rằng “Thiên Chúa dò thấu tâm can”, và Người biết rõ rằng khi chúng ta sống trong thế gian, chúng ta không thể rơi vào cạm bẫy điên rồ này. Thực tế con quỷ này vẫn nuôi hy vọng khả dĩ khiến chúng ta không cầu nguyện nữa để chúng ta không còn sống trước sự hiện diện của Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, không dám giơ đôi tay cầu xin ơn giúp chúng ta chiến đấu với các tư tưởng” (Evagrius, Praktikos, 44, p.29).
Những chủ đề của các ước mơ chúng ta cho thấy đó là nơi đam mê rất mạnh.[1]
“Sự tập chú tư tưởng liên lỉ vào Thiên Chúa sẽ giúp diệt trừ được mọi đam mê và khiến chúng phải chạy trốn. Đây là vũ khí để chúng ta ra những đòn trí mạng đối với chúng” (Isaac Syria)[1]. Để kết, chúng ta có thể nhắc lại lời khuyên của thánh Gioan Thánh Giá. Ngài quả quyết rằng chúng ta có thể chiến thắng các thói xấu bằng một cách thức rất đơn giản mà hiệu quả và hay hơn là cách tấn công trực diện. Linh hồn đánh nhanh và thắng nhanh tất cả các cơn cám dỗ và quyền lực của chúng bằng một hành động yêu mến, hành động ấy khả dĩ trực tiếp nâng linh hồn lên kết hợp với Thiên Chúa. Do đó, linh hồn sẽ ở một nơi mà kẻ thù không thể tấn công và làm tổn thương được; bởi linh hồn đã được cứu thoát rồi.


CHƯƠNG 17 PHÂN ĐỊNH THẦN KHÍ TRONG TRUYỀN THỐNG SAU NÀY

Thời gian qua, các tác giả thiêng liêng và các vị linh hướng đã phát triển một số quy luật làm sáng tỏ vấn nạn về sự phân định. Chúng ta ngày càng ý thức về khó khăn do những nguồn gốc phân định các sự thúc đẩy của chúng ta với bất kỳ nền tảng nào (Thiên Chúa, ma quỷ, bản tính chúng ta). Vì điều này là sự cần thiết để có một tri thức cao quý về linh hồn con người, và chúng ta chắc chắn không có điều đó. Dần dần khi chúng ta biết nhiều hơn về tầm ảnh hưởng các ý thức, thì sự thận trọng lớn lao hơn đã trở nên cần thiết và vấn đề toàn diện sẽ nhận lấy một khía cạnh khác biệt. Cuối cùng, vấn đề không nằm ở một “tư tưởng” riêng mà là biết tốt xấu hay không, nếu như nó được chào đón và được theo đuổi hay không. Và tiêu chuẩn xác thực nhất chính là một quy luật mà Tin Mừng đưa ra: xem quả thì biết cây. Nếu quả tốt, thì cây cũng tốt.
Đối tượng của sự phân định là rất rõ ràng. Nếu chúng ta điều khiển mọi sự dưới luật của Thiên Chúa và Hội Thánh, và những nghĩa vụ của xã hội chúng ta, thì chắc chắn sẽ tốt. Còn nếu đi ngược lại thì chắc chắn sẽ tồi tệ. Nhưng trong nhiều hoàn cảnh khác, ý Thiên Chúa được thể hiện rõ. Tuy nhiên không phải lúc nào ý Thiên Chúa cũng là hiển nhiên: ví dụ, khi chúng ta có ý định làm cái gì đó tốt, nhưng chúng ta lại không biết làm sao thì chúng ta sẽ không thể hoạch định được cái gì tốt hơn và cần hơn, hay một trong hai hành động đầu tiên không thể lôi kéo chúng ta vào những hành động khác ít tốt hơn hay có thể xấu nữa là khác. Có vô số cám dỗ đội lốt điều tốt. Do đó, sự phân định sẽ phải đối đầu với “các thần khí”, có thể không tốt mà cũng không xấu.
Có 3 loại biến cố đòi hỏi sự phân định:
1. Các thị kiến, các mặc khải, các tiên báo…
2. Các linh hứng nội tâm vốn không thể phân biệt được do Dòng chảy thường thấy ở ý thức.
3. Các trạng thái chung của niềm an ủi hay buồn phiền có thể cho thấy ý Chúa như một sự chuẩn bị cho một dự phóng đặc biệt (x. Linh Thao, thánh Ignatiô Lôyôla).
Mỗi loại này có thể truy tìm về nguồn gốc bản chất của nó hoặc nhiều nguyên do khác. Ví dụ:

1. Những ảo giác bệnh hoạn.
2. Một sự thúc đẩy ngay lập tức xuất hiện trong ý thức mà không rõ nguyên do (đối với thánh Ignatiô, đây là một tội chắc chắn có nguồn gốc siêu nhiên) có thể chỗi dậy từ vô thức sau một thời gian ủ bệnh.
3. Tình trạng hưng-trầm cảm, tình trạng xen lẫn giữa trầm cảm hay hưng phấn.
Hơn nữa, bản tính tự nhiên không loại trừ các ảnh hưởng khác; không có gì tồn tại dưới dạng nguyên chất. Một mặt, siêu nhiên luôn luôn là sự thật về con người đặc biệt này, với tính khí này và lịch sử tính này. Mặt khác, chính với những lời tiên báo về một thế giới tự nhiên mà một cách thông thường nhất, Thiên Chúa đã viết lịch sử của hoạt động thiêng liêng với các biến cố về lịch sử “xúc phạm” (các ngôn sứ đọc ra chiều kích “thiêng liêng” về các biến cố này), với lịch sử riêng tư của chúng ta, các tài năng, lệch lạc và ngay cả tội lỗi của chúng ta.
Chính xác hơn, chúng ta có thể nhìn thấy rằng Satan có thể dùng bất cứ hoạt động nào, hoặc bắt nguồn từ tự nhiên hoặc là siêu nhiên. Một cách quân bình của hoạt động ân sủng có thể tránh được một tác động xấu đối với lợi ích của chúng ta (ví dụ như khi chúng ta chiến đấu và thắng được một cơn cám dỗ).
Bởi thế sẽ có một tình trạng của những nguyên nhân rất phức tạp và để phân định chúng sẽ là công việc rất tinh tế. Thánh Thần ban tặng cho người nào đó một đặc sủng khả dĩ phân định, một loại khuynh hướng thiêng liêng nhận thức bằng trực giác hay những tư tưởng và những hấp lực có nguồn gốc thiêng liêng hay không. Sự viên mãn của phần thưởng này bao hàm cả sự thánh thiện mang tính đặc biệt, sự khiêm nhường sâu thẳm và sự tuân phục đối với huấn quyền của Giáo Hội. Lịch sử gần đây cung cấp một mẫu gương phi thường về hoạt động chữa lành (Cure D’Ars).
Dù sao đi nữa thì phần thưởng này cũng mang lấy đặc tính vô ngộ. Lúc nào cũng không thể sai lầm được trong khi áp dụng.
Phần thưởng này hiếm khi đạt tới sự viên mãn, và thánh thiêng. Thường thường xuyên qua ánh sáng nội tâm đặc biệt Thần Khí làm nổi bật một phần thưởng của đức cẩn trọng đòi hỏi phải trải qua học hỏi, kinh nghiệm và khôn ngoan trong việc áp dụng các quy luật truyền thống về sự phân định. Các quy luật này sẽ được áp dụng cách rất khôn ngoan bởi vì không có luật nào (nói chung) mà không có sai lầm khi mới đem áp dụng.
Đây là một danh sách thường thấy về các dấu hiệu của các thần khí tốt và xấu[1]:




Thần Khí Tốt
Thần Khí Xấu

Cho Lý Trí

1
- Sự thật.
- Dối trá.

2
- Không có gì là vô ích.
- Phù phiếm, vô ích, những gì hão huyền.

3
- Hiểu biết rõ ràng (dù đôi khi tư tưởng như đám mây che phủ).
- Nhiều bóng tối hoặc ánh sáng lệch lạc trong tư tưởng.

4
- Sự ngoan ngoãn của lý trí.
- Bảo thủ ý kiến của mình.

5
- Thẩn trọng
- Thổi phồng, thái quá.

6
- Những tư tưởng khiêm hạ.
- Kiêu ngạo, phù hoa.

Cho Ý Chí

1
- Bình an nội tâm.
- Lo lắng, bất an.

2
- Sự thật, khiêm nhường thật.
- Kiêu ngạo, khiêm nhường giả dối (nói mà không làm).

3
- Tin tưởng vào Thiên Chúa, không cậy mình.
- Tự cho mình đúng, thất vọng.

4
- Một ý chí mềm dẻo, dễ biết mình.
- Cứng rắn, một trái tim cộc cằn và khép kín.

5
- Ý hướng ngay lành khi hành động.
- Ý hướng quanh co.

6
- Kiên nhẫn khi đau thể lý cũng như thiêng liêng.
- Không kiên nhẫn khi chịu thử thách.

7
- Chiến đấu nội tâm.
- Nổi loạn của các đam mê.

8
- Đơn sơ, thật thà.
- Hai lòng, dối trá.

9
- Tự do thiêng liêng.
- Một trái tim bị nô lệ bởi những gì là thế gian.

10
- Tỉnh thức theo gương Chúa Kitô.
- Ác cảm với Chúa Kitô.

11
- Đức ái hoàn hảo, sự thiện hảo, hy sinh.
- Nhiệt tâm lệch lạc, sự cay đắng, đạo đức giả.











Dấu Chỉ Của Một Thần Khí [1]
Do Dự Và Đáng Ngờ:
1. Dứt khoát chọn một đời sống, rồi mơ tưởng một đời sống khác (“Đứng núi này trông núi nọ”).
2. Có xu hướng chạy theo những gì bất thường, lập dị không phù hợp với đời sống của một người.
3. Thích phi thường trong việc thực hành các nhân đức.
4. Nhiều lúc hay tìm kiếm những việc hành xác sám hối bề ngoài.
5. Quá nhiều an ủi và khoái cảm nơi giác quan không được cắt đứt.
6. Những giọt lệ tự nó không đáng tin.
7. Mặc khải thường đến với con người dưới hình thức thiện hảo tầm thường.
Chúng ta cần nhấn mạnh rằng không một dấu chỉ nào trong số này là một chuẩn mực tuyệt đối. Chúng bộc lộ một khả năng chắc chắn về điều tốt hoặc điều xấu trong một hành động. Sự hội tụ của chúng có sẽ dẫn tới tình trạng chắc chắn về luân lý. Do đó, đem áp dụng những chỉ thị này với nhau luôn luôn là điều quan trọng.


CÁI NHÌN TỔNG QUÁT

Một bản tóm lược có tính giản lược, đối với một phạm vi chắc chắn nào đó, nhược điểm của phương pháp phân tích, nó sẽ dang dở khi đem áp dụng sự phân định. Vì rốt cuộc nó luôn là một hành động cá nhân dưới sự cân nhắc và ý nghĩa thực sự của hành động này chỉ có thể thấu triệt khi được nhìn thấu hoàn cảnh và ý hướng thường thấy nơi người ấy. Cùng một hành động giống nhau sẽ có một giá trị khác nhau nơi một người khai tâm và nơi một người đã được trải nghiệm trong đời sống thiêng liêng. Bác sĩ có thể chẩn đoán dựa trên tình trạng sức khỏe toàn diện của một người. Từ cái tổng thể cho ra ý nghĩa đối với từng phần.
Quan trọng là cung cấp đầy đủ những khía cạnh cả về lịch sử tính lẫn hiện sinh trong hành động cá nhân. Đây là sự thật tối thượng khi nó là một vấn đề sự lượng định một người hay một quyết định căn bản như ơn gọi. Vài nét phác họa quy mô về một đời sống và trên hết là chọn lựa căn bản làm nên một định hướng của một người hướng về những giá trị cao cả bền vững - Tất cả chỉ mang tính tự quyết, ngay cả khi một người chưa thể, có lẽ sẽ không bao giờ có thể, chuyển những giá trị này vào hoạt động trong đời sống của người ấy[1]. Tự do và nhân đức sẽ được nhận ra cách tiệm tiến. Một hành động bất toàn nhưng nó sẽ đi về sự hoàn thiện lớn lao hơn, đó là một dấu chỉ tốt đẹp của sức mạnh thiêng liêng hơn là một hành động hoàn hảo mang tính khách quan, trái lại là tĩnh lặng và có lẽ là tự mãn.
Không khía cạnh đơn điệu nào của một người được loại trừ: thể lý, tâm lý, tâm linh. Con người là những hữu thể tại thế. Họ diễn tả những chọn lựa thiêng liêng của mình qua con người riêng tư của mình. Đó sẽ là con đường thể hiện việc hiện hữu và hoạt động của họ. Cái được xem là toàn diện được thành hình nhờ sự hài hòa và hiệp nhất tất cả các yếu tố của một con người, sự hòa hợp duy nhất này làm nên nét riêng. Bởi vậy, dựa trên yếu tố của người quan sát sẽ có một nhận thức tức thời và toàn diện - thường là sự tiếp xúc trực tiếp lần đầu tiên với người ấy - nó sẽ nắm chắc cái gì đó của ghi chú duy nhất làm nên nét riêng biệt không phải hữu thể của nó có thể phân tích hay có thể đưa vào ý thức tất cả yếu tố của sự phân định này. Đây là lý do tại sao, trong thực tại cụ thể, sự phân tích là một tác động phụ, nó minh định một điều được nhận thức bằng trực giác và có khả năng làm nên một định hướng tổng hợp rõ ràng hơn.