|
LẮNG NGHE TIẾNG CHÚA

Cắt đứt với dĩ vãng, Phanxicô còn phải tìm một lối đi giữa trăm vạn nẻo đường mở rộng. Chàng không khỏi hoang mang, nhưng vẫn đặt vững niềm tin vào Thiên Chúa. Để nghe rõ tiếng Chúa hơn, chàng xa dần những hoạt động buôn bán của nghiệp nhà và bắt đầu một cuộc đời tâm niệm nguyện cầu.
Xa hẳn các bạn bè vui chơi, Phanxicô chỉ thổ lộ tâm tư với một người bạn thân, mà các nhà chép truyện không ghi tên tuổi. Cêlanô chỉ chép: “Người bạn ấy cùng Phanxicô chung một chí hướng và thường cùng chàng đàm đạo trong các cuộc dạo mát quanh vùng. Đôi bạn tâm giao thường dẫn nhau đến một hang đá gần thành. Hai người vừa đi vừa nói đến cái kho tàng quý báu, đối tượng mới đang quyến rũ lòng đôi bạn thanh niên. Lúc đến hang, thường thì chỉ một mình Phanxicô vào, để riêng mình ra trước mặt Chúa. Đây là nơi con người vừa trở lại đã sống những giây phút khắc khoải của tâm hồn đang bị xâu xé giữa trăm nghìn ý tưởng và xu hướng đối lập. Để tìm lại thế quân bình cho tâm giới, Phanxicô tha thiết cầu xin ơn trên soi đường chỉ lối. Nhìn lại quãng đời qua, chàng khóc lóc những tội lỗi mà giờ đây chàng ghê tởm và không khỏi run sợ một ngày kia rất có thể lại ngã về lối cũ. Ngần ấy thứ dày vò cấu xé tâm can, chàng đau khổ đến mực thất sắc, mỗi lần ra khỏi hang để cùng bạn trở về nhà.”
Nhưng bỗng một hôm, sau một giờ cầu nguyện, Phanxicô ra khỏi hang, vẻ mặt hoàn toàn bình tĩnh. Cơn bão nội tâm đã lặng. Ánh sáng Chúa đã đuổi tan bóng tối. Một niềm vui tràn lan và bọc lộ ra ngoài. Không cầm được nỗi lòng, nhưng cũng khó bề bày tỏ được những gì còn chất chứa trong tâm tư, Phanxicô chỉ biết trả lời với những ai gặn hỏi thái độ mới của chàng:
- Vâng, tôi bỏ chiến địa miền Pouilla trở về là để lập ngay chiến công giữa xứ sở.
Hoặc:
- Vâng, tôi sắp làm lễ thành hôn và người hôn thê của tôi là một tuyệt thế giai nhân người trần không ai sánh kịp.
Một thay đổi rõ rệt trong sinh hoạt hằng ngày là Phanxicô chỉ còn đi lại với các bạn nghèo đang ốm đau, đói khát và sống nheo nhóc giữa châu thành. Xưa nay, Phanxicô vẫn thương hạng người xấu số ấy. Nhưng lòng trắc ẩn từ trên ban xuống ấy từ ngay đã biến thành một tình yêu đặc biệt, như tình tương giao của những người đồng cảnh. Sự giúp đỡ bạn nghèo mà chàng nhất quyết không bao giờ hẹp lượng, không phải là một sự bố thí của kẻ cao sang mà chỉ là thái độ san sẻ của một mối tình huyng đệ trong một tâm hồn đã bắt nguồn với tình yêu xả kỷ. Của cải vật chất trong tay chỉ tượng trưng cho sự cung hiến bản thân. Cho tất cả, cho mọi nơi, và mọi lúc đã thành một nhu cầu của tâm hồn. Vì vậy chẳng những bạc tiền mà đến cả một vật dụng trong tay cũng như y phục đang bận trên người, Phanxicô điều không ngần ngại biếu cho những ai thiếu thốn. Những ngày thân phụ vắng nhà, Phanxicô cố tình sắp lên bàn thật nhiều thức ăn để dành phần cho các kẻ nghèo thường đến các nhà vào buổi tan bữa, xin những thứ ăn còn lại. Bà Pica biết rõ ý con, nên không nói gì. Có lẽ người mẹ đã vui mừng về cử chỉ bác ái của con, dấu chỉ một đổi mới đang đến. Càng ngày thế giới nghèo càng thu hút Phanxicô. Cuối cùng chàng chỉ biết nghĩ đên người nghèo, giúp đỡ người nghèo và vui sống giữa người nghèo.
Phanxicô với cái nghèo là tình cá nước. Chỉ đứng ngoài cuộc, đời nghèo mà rộng tay bố thí cho người nghèo, Phanxicô vẫn chưa thấy thoả tình. Chàng muốn trở nên một người nghèo để chung sống cuộc đời nghèo.
Ý định ấy Phanxicô muốn thực hiện một lần xem thử. Và chàng đã thực hiện trong một dịp hành hương tại Rôma. Hôm ấy, đứng trước mồ thánh Phêrô, Phanxicô quan sát đoàn người trẩy lễ dâng cúng vào hòm tiền. thấy số tiền công đức chẳng là bao, chàng nói lớn: “Vị thủ lãnh Tông đồ phải được suy tôn với tất cả lòng quảng đại. Sao những người giàu sang kia lại hẹp hòi như thế?”.
Nói rồi cậu Bernađônê, với một cử chỉ phóng khoáng mở rộng túi vàng, ném từng nạm như mưa vào hòm sắt. Những đồng tiền vàng rơi xuống nền đá cẩm thạch vang dội một góc thánh đường. Giữa sự ngơ ngác của mọi người, Phanxicô bình thản bước ra, xem cử chỉ của mình chỉ là một việc hết sức tự nhiên.
Ra khỏi, Phanxicô đi lẫn vào đám đông hành khất trước sân thánh đường. Chàng xin đổi bộ áo sang trọng với bộ đồ rách nát của một người hành khất. Rồi sắp hàng với dân bị gậy, chàng ngửa tay ăn mày, chia với họ bữa cơm bố thí. Lần đầu tiên: lần đầu tiên được mang chính trên bản thân phù hiệu của Nàng Tiên Nghèo mơ ước bấy lâu, lòng Phanxicô dạt dào vui sướng. Nếu không còn một chút e ngại sợ phạm đến gia phong thì Phanxicô đã ở hẳn đây.
Nhưng rồi, bước cuối cùng, chàng cũng sẽ vượt qua.
CUỘC GẶP GỠ ĐẦU TIÊN

Về Assisi, Phanxicô sống ẩn dật hơn nữa. Ngày càng cầu nguyện tha thiết và lâu dài hơn. Chàng phong lưu công tử đang qua một thời chuyển hướng, lẽ tất nhiên là không tránh khỏi nhiều trở ngại cực lòng. Đường tiến đức không phải rộng rãi thênh thang gì, mà thói cũ nết xưa đâu có một sớm một chiều mà trừ diệt được. Con người xác thịt biết đã đến ngày mình phải khuất phục lại càng lồng lộn hơn xưa. Trong cuộc chiến đấu gay go nhưng âm thầm ấy, nhiều khi Phanxicô đã có ý định tháo lui. Thì ra chàng cũng mỏng giòn yếu đuối như ai.
Một hôm, tiếng mầu nhiệm lại phán bảo: “Phanxicô, nếu con muốn gặp Ta, hãy khinh chê những của cải thế gian, hãy từ bỏ chính bản thân con, để yêu chuộng những sự đắng cay hơn những điều dịu ngọt. Chỉ có biến đổi hẳn cái bản thân con như vậy, mới có cơ thấu hiểu được ý Ta”.
Phanxicô cúi đầu lĩnh lời dạy và hứa sẽ vâng theo.
Nhưng trong công việc hoán cải một con người như Phanxicô, Chúa đã dự tính những nhát dao sắc bén và thần diệu. Và đây là nhát dao thần diệu nhất mà chính Phanxicô đã ghi lại trong Di chúc sau này: “Vào thời tội lỗi của đời tôi, tôi cho việc gặp những người mắc bệnh phong là không gì ghê tởm bằng. Nhưng thuở ấy chính Thiên Chúa thúc đẩy tôi tìm đến những người hẩm hiu xấu số ấy. Tôi theo lệnh Chúa và từ đó mọi sự đều biến đổi. Nhưng việc trước kia tôi cho là khó khăn không thể nào vượt qua được, nay bỗng trở nên rất dễ dàng. Rồi không bao lâu nữa, tôi từ bỏ hẳn thế gian”.
Những người mắc bệnh phong, thời ấy ở khắp Châu Âu, thường lê gót trên các nẻo đường. Họ đã bị gạt ra ngoài lề xã hội. Vừa thoáng thấy họ, người ta đã vội tìm lối rẽ để khỏi phải ghé mắt nhìn tấm thân tàn rữa đầy máu mủ hôi tanh. Tất nhiên, trước đây một con người như Phanxicô, bao giờ cũng trưng diện bảnh bao, chỉ quen tiếp xúc với lớp người giàu có cao sang, thì làm sao đến gần được những bệnh nhân hôi tanh ghê tởm ấy. Có giàu lòng bác ái, thì cũng chỉ gián tiếp nhờ những người trung gian cấp phát của bố thí mà thôi.
Nhưng một hôm, thả lỏng dây cương cho ngựa đi từng bước ở một nẻo đường quanh, anh chàng phong lưu công tử bỗng gặp một người phong đối diện. Phản ứng tự nhiên là gò cương quay ngựa lại. Nhưng Phanxicô trấn tĩnh được ngay, chàng vội vàng xuống ngựa, mở rộng hai tay ôm lấy người bạn tàn phế, kính cẩn trao cho một số tiền làm quà giao hảo. Phút chốc một niềm vui dâng cao xâm chiếm cả toàn thân chàng. Thiên Chúa đã giữ lời hứa. Người đã đổi cay đắng ra ngọt ngào cho những ai biết mến chuộng cay đắng hơn ngọt ngào.
Lần thứ nhất người hiệp sĩ chiến thắng được mình. Vẫn chưa lấy làm đủ. Chàng vội lên ngựa phi nhanh về một trại phong gần thành. Đến nơi, chàng vào hẳn trong lữ viện của mọi đau khổ ở trần gian này, mời tất cả các người phong ở đấy lại, rồi tha thiết xin họ tha thứ cho chàng cái tội đã để lòng coi khinh họ bấy lâu. Chàng ở lại giữa họ, thân mật truyện trò và an ủi họ. Dùng dằng không nỡ dứt, trước lúc ra về, chàng biếu mỗi người một món tiền. Và như để hứa hẹn một ngày mai trở lại chung sống với họ, lúc cáo biệt, Phanxicô không ngần ngại hôn lên mặt tất cả các bệnh nhân.
Mười mấy năm sau, khi đã đi tới cùng con đường thánh thiện, trong Di chúc, cuộc gặp gỡ đầu tiên này còn để lại một dư vị dịu dàng êm đẹp như một mối tình đầu. Mà thật, đây chính là một mối tình chứ không phải chỉ là một tấm lòng từ thiện đối với một phần nhân loại đau khổ. Cặp mắt siêu nhiên của Phanxicô đã nhận thấy, qua những tấm thân tàn tật ấy, hình tượng của một tấm thân đã tan nát treo trên núi Sọ. Trên hình thù ghê tởm của những người phong, Phanxicô đã yêu mến hình ảnh Con Người mà Thánh vịnh 21 đã ghi những nét thảm thương: “Tôi chỉ là thân sâu bọ, không phải là một con người nữa. Tôi là vật cho thiên hạ dể duôi, là giống cho muôn dân ghê tởm”. |
|