Love Telling ThanhCaVN nhắn với ACE: Chúng con cậy vì Danh Chúa nhân từ, xin cho Linh hồn Cha cố Phêrô (Ns. Kim Long) được lên chốn nghỉ ngơi. Hằng xem thấy mặt Đức Chúa Trời sáng láng vui vẻ vô cùng. Amen! Loan Pham nhắn với ACE: Giêsu Maria Giuse, con mến yêu xin thương cứu rỗi linh hồn Phê-rô Lm. Kim Long sớm được hưởng Nhan Thánh Chúa. Amen Loan Pham nhắn với ACE: Hòa cùng với Giáo Hội Công Giáo Việt Nam với sự ra đi của Lm. Kim Long là Nhạc sĩ quý mến của chúng ta...đó là sự thương xót mất mát rất lớn của Thánh Nhạc Việt Nam... chúng ta hãy cùng dâng lời nguy Loan Pham nhắn với Gia đình TCVN: Hòa cùng Giáo Hội Công giáo Việt Nam với sự ra đi vô cùng thương tiếc của Lm. Kim Long là nhạc sĩ Thánh Ca thân yêu của chúng ta... Chúng ta cùng dâng lời nguyện xin: Giesu Matia Giuse xin thương cứu rỗi linh ThanhCaVN nhắn với ACE: Nhân dịp Sinh Nhật lần thứ 18 Website, BQT-TCVN kính chúc Quý Cha, Quý Tu sỹ Nam Nữ, Quý Nhạc sỹ - Ca trưởng – Ca sỹ, Quý Ân Nhân và toàn thể ACE luôn tràn đầy HỒNG ÂN THIÊN CHÚA. ThanhCaVN nhắn với ACE: Chúng con cậy vì Danh Chúa nhân từ, xin cho Linh hồn ĐTC Phanxicô được lên chốn nghỉ ngơi. Hằng xem thấy mặt Đức Chúa Trời sáng láng vui vẻ vô cùng. Amen!

kết quả từ 1 tới 40 trên 63

Chủ đề: Giới thiệu sách: Chúa Ba Ngôi

Threaded View

  1. #10
    Bảo_†_Lâm's Avatar

    Tham gia ngày: Jan 2012
    Tên Thánh: Pierre-Hilaire
    Giới tính: Nam
    Đến từ: Sài thành
    Quốc gia: Không chọn
    Bài gởi: 284
    Cám ơn
    2,043
    Được cám ơn 2,001 lần trong 281 bài viết

    Default

    Thiên Chúa, Cha Của Đức Giêsu.

    Trong Tân Ước, danh xưng Cha được quy gán cho Thiên Chúa. Điều này được thấy rõ nhờ sự kết hợp giữa hai khía cạnh:
    1. Đối với niềm tin của người Do thái, danh xưng Cha được hiểu khi quy chiếu vào Thiên Chúa duy nhất.
    2. Chúa Cha là Cha của Đức Giêsu. Điều đó cho thấy tính liên tục của niềm tin kitô giáo có mối tương quan với Cựu ước (khía cạnh thứ nhất), cũng như sự mới mẻ của niềm tin kitô giáo (khía cạnh thứ hai)[1]. Trong khi sự mới mẻ được Đức Giêsu mang đến sẽ dẫn tới chỗ đào sâu khía cạnh thứ nhất. Chúng ta sẽ trở lại khía cạnh đó ở cuối chương này.
    Theo khía cạnh thứ nhất, danh xưng Cha bao gồm toàn bộ thuộc tính mà Cựu Ước quan niệm về Thiên Chúa. Ngài là Đấng sáng tạo và cứu độ dân Ngài, Đấng tạo dựng thế giới, Ngài là Thiên Chúa có Ngôi vị, là Thiên Chúa duy nhất và bất tử, là Thiên Chúa quan phòng, là chủ tể và là Đức Chúa, là vua, là Đấng xét xử và Ngài là Cha– Đấng được chúc tụng. Việc giảng dạy của Đức Giêsu cung cấp cho chúng ta nhiều chứng cứ: “Anh em hãy xem chim trời, chúng không gieo không gặt, không thu tích vào kho; thế mà Cha anh em trên trời vẫn nuôi chúng” (Mt 6, 26). Đối với Chúa Cha, có một điểm nhấn đặc biệt được đặt trên sự quan phòng và tối cao của Ngài: “Lạy Cha là Chúa tể trời đất, con xin ngợi khen Cha vì Cha đã giấu kín không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mặc khải cho những kẻ bé mọn” (Lc 10, 21). Giáo lý Giáo hội Công giáo đưa ra bản tóm tắt sau đây:
    Khi gọi Thiên Chúa là “Cha”, ngôn ngữ đức tin chủ yếu muốn nêu lên hai khía cạnh: Thiên Chúa là nguồn gốc thứ nhất và là Đấng uy quyền siêu việt trên hết mọi sự, đồng thời là Đấng nhân hậu và yêu thương săn sóc mọi con cái của Ngài. Tình phụ tử này của Thiên Chúa cũng có thể được diễn tả qua hình ảnh tình mẫu tử (x.Is 66, 13; Tv 131, 2), nó nói lên rõ hơn sự gần gũi của Thiên Chúa và sự thân mật của Ngài với thụ tạo. Như vậy ngôn ngữ đức tin múc nguồn nơi kinh nghiệm phàm nhân về tương quan cha mẹ, các vị này một cách nào đó là những đại diện đầu tiên của Thiên Chúa đối với con người. Nhưng kinh nghiệm đó cũng cho thấy rằng, cha mẹ phàm nhân có thể phạm sai lầm và họ có thể làm méo mó dung mạo của tình phụ tử và mẫu tử. Vì vậy phải nhớ rằng, Thiên Chúa siêu vượt hẳn trên sự phân biệt phái tính của phàm nhân. Ngài không là nam mà cũng không là nữ. Ngài là Thiên Chúa. Ngài cũng siêu việt hẳn trên sự làm cha làm mẹ của phàm nhân (x.Tv 27, 10), mặc dù Ngài là nguồn gốc và là chuẩn mực của chức năng làm cha làm m? (x.Ep 3, 14-15; Is 49, 15): không ai là cha như Thiên Chúa là Cha[1].
    Theo khía cạnh thứ hai mà chúng ta đã trình bày trên đây, thì Tân Ước cho thấy rằng Chúa Cha không chỉ là Cha trong tương quan tốt lành đối với dân Ngài, với nhân loại và thế giới, nhưng trước hết và nền tảng nhất, Tân Ước muốn nói lên rằng, Chúa Cha có tương quan duy nhất đối với Con Một Ngài là Đức Giêsu. Chính qua tính cách làm Cha của Ngài đối với Đức Giêsu mà Chúa Cha thể hiện tính cách làm cha vì ích lợi cho con người và thụ tạo. Ở đây chúng ta khám phá ra một khía cạnh đặc biệt về niềm tin Kitô giáo liên quan đặc tính phụ hệ của Thiên Chúa. Điều này có nghĩa là sự mặc khải về Chúa Cha có nền tảng trong con người Đức Giêsu và nó tập chú vào con người Đức Giêsu, Con Thiên Chúa, đến mức bàn về Chúa Cha cũng chính là bàn về Chúa Con vậy. Tư cách làm Cha của Thiên Chúa được biểu lộ trong con người Đức Giêsu như là Con Một. Như thế, theo danh xưng Cha chính là tương quan giữa Chúa Cha và Đức Giêsu ở bình diện thứ nhất.
    Chúng ta hãy chú ý đến những lời Đức Giêsu giải thích danh xưng “Cha” đối với Thiên Chúa. Trong toàn bộ những lời Đức Giêsu được các Phúc Âm theo thánh Mathêu, Mác cô và Luca ghi lại, chúng ta bắt gặp nơi miệng Đức Giêsu những kiểu nói (Lạy Cha, Cha Thầy) một cách ngắn gọn, hay “Cha anh em”. Chúng ta cũng đừng quên kiểu nói “Cha chúng tôi” khi Đức Giêsu d?y các môn đệ cầu nguyện. Những lời đó Đức Giêsu thưa với Chúa Cha không bao giờ có nghĩa là Thiên Chúa, là Chúa của Đức Giêsu theo cùng một cách như Thiên Chúa là Cha của các môn đệ. Tính cách phụ hệ của Chúa Cha thuộc một trật tự cao cả và siêu việt khác. Việc kết nối công thức “Cha Thầy”, lối biểu hiện tuyệt đối “Cha” và “Con” đồng tương quan với Ngài (Mt 11, 27; Lc 10, 2; xem Mc 13, 32) nói lên tương quan chiều sâu và chuyên biệt của Đức Giêsu đối với Thiên Chúa, Cha Người. Tương quan này được biểu lộ trong lời nguyện của Đức Giêsu: “Abba, lạy Cha!” (Mc 14, 36) tương quan độc nhất giữa Đức Giêsu và Cha Ngài bao hàm một khía cạnh kép. Một đàng, Đức Giêsu quy mọi sự về Cha Ngài : Đức Giêsu được Chúa Cha sai đến (Mc 9, 37. 12, 6), Ngài cầu xin Chúa Cha (Mc 14, 36; Mt 11, 25- 26; Lc 22, 42; 23, 34 và 23, 46) và Ngài sẽ đi đến chỗ quả quyết rằng Ngài không biết ngày quang lâm mà chỉ Chúa Cha mới biết mà thôi (Mc 13, 32; Mt 24, 36). Một đàng, các Phúc Âm cho chúng ta thấy tất cả uy quyền tối cao của Đức Giêsu : Ngài giảng dạy như Đấng có thẩm quyền (Mc 1, 22; Mt 7, 29), Ngài chứng tỏ uy quyền liên quan đến ý nghĩa của luật (Mt 5-7). Ngài có quyền tha tội (Mc 2, 1-12; Lc 7, 47 – 49), Ngài chữa bệnh bằng một sức mạnh xuất ra từ Ngài (Mc 5, 30; Lc 6,19), Ngài đòi hỏi phải tin vào quyền riêng của Ngài (Mc 9, 23-24; Mt 9, 28; Lc 8, 50), Ngài là người duy nhất biết Chúa Cha và có thể mặc khải Chúa Cha cho con người (Mt 11, 27; Lc 10, 22). Uy quyền này là sự biểu hiện tương quan duy nhất của tử hệ mà Đức Giêsu duy trì với Thiên Chúa, Cha Ngài.
    Nơi Thánh Gioan, chúng ta gặp thấy lối diễn tả kép “Cha Thầy và Cha anh em” (Ga 20, 27). Việc nối kết hai thành ngữ “Cha Thầy và Cha anh em” với nhau có thể được sáng tỏ nhờ biến cố thăng thiên (Thầy lên cùng Cha Thầy cũng là Cha anh em) mà từ đó Đức Giêsu đề cập đến việc nhận lấy ân huệ Thánh Thần (Ga 20, 22). Ân huệ đó làm cho các môn đệ trở nên con cái Thiên Chúa (x.Ga 1,12): “Còn những ai đón nhận Ngài thì Ngài ban cho họ quyền trở nên con cái Thiên Chúa”. Người ta có thể minh giải những lời đó theo cách sau: theo Tôi, Cha của Tôi cũng là Cha của các anh. Đức Giêsu được giới thiệu trong tư cách là trưởng tử của những kẻ nhờ Ngài mà duy trì một tương quan mới với Thiên Chúa là Cha. Sự trổi vượt này bao hàm tử hệ của Đức Giêsu cao hơn tử hệ của những người đến sau Ngài và tử hệ của Ngài là nguồn mạch tử hệ của những người nhờ Ngài mà đón nhận từ nguồn mạch đó (x Ga 1, 12). Những kẻ tin đạt tới Chúa Cha qua Đức Giêsu – Con Một Chúa Cha.
    Đặc biệt đối với thánh Gioan, tính cách tương quan hoàn toàn duy nhất của Đức Giêsu đối với Cha Ngài được diễn tả qua việc diển tả các thành ngữ tuyệt đối là “Chúa Cha” và “Chúa Con”. Các thành ngữ này nhấn mạnh khía cạnh chuyên biệt về tương quan Cha – Con: Chúa Cha là Cha trong tư cách là Cha của Con Một, là Đức Giêsu. Hơn ai hết, các danh xưng Cha và Con đã được Giáo hội đón nhận như là những danh xưng nhằm biểu thị Đấng mà từ Ngài, nhiệm sinh Đức Giêsu và biểu thị chính Đức Giêsu.
    Trên nền tảng được đặt ra này, chúng ta cần phải mặc cho hạn từ “Cha” với một nội dung nào đó? Các danh xưng Cha và Con được lập nên từ phép loại suy rút ra từ đời sống gia đình nhân loại theo nghĩa rộng. Phép loại suy này được đặt trong trật tự tương quan và bao hàm hai khía cạnh chính: nguồn gốc chuyên nhất và sự thân mật khắng khít. Hai khía cạnh này có thể cho phép chúng ta xác định rõ nội dung thần học của danh xưng Cha khi đối chiếu với Đức Giêsu. Nhất là chúng ta lưu ý đến việc đối chiếu với phúc âm thứ tư của thánh sử Gioan.
    Đặc biệt nguồn gốc chuyên nhất đó tỏ rõ tương quan phụ hệ được chủ đề sai đi mặc khải: Chúa Cha là Đấng sai phái Con Một Ngài vào trần gian. Tương quan cội nguồn này đồng nhất hoá Đức Giêsu trong tương quan giữa Ngài với Chúa Cha đồng thời chứng minh điều mà Đức Giêsu đã thực hiện và chứng minh chính bản thể Ngài. Kẻ sai phái một người đi thì chính người được sai đó là người thứ hai. Kẻ sai phái trao quyền hành của mình cho người được sai phái và công việc của kẻ được sai đi là cam kết thực hiện theo ý của kẻ sai mình và nắm chắc quyền hạn của mình. Chính Đức Giêsu giải thích như thế: “Tôi từ trời mà đến không phải để làm theo ý Tôi, nhưng là để làm theo ý Đấng đã sai Tôi” (Ga 6, 36); “Ai đón tiếp người Thầy sai đến là đón tiếp Thầy, và ai đón tiếp Thầy là đón tiếp Đấng đã sai Thầy” (Ga 13, 20). Như thế chủ đề về việc sai đi này mặc khải tính đồng nhất giữa kẻ được sai đi trong tư cách là người đại diện của kẻ sai phái mình và hoạt động của mình thì ăn khớp với kẻ sai phái mình. Chủ đề sai đi đưa đến chỗ có khả năng nắm bắt được mối liên hệ hỗ tương đức tin vào Đức Giêsu và vào Chúa Cha: việc nhận biết Đức Giêsu trong tư cách là kẻ được sai đi được liên kết cách nội tại với việc nhận biết Cha Ngài. Do đó, sứ vụ của Giáo hội là làm sao kéo dài việc sai đi này (x Ga 17, 18; 20, 21).
    Sự sai đi cũng được mặc khải trong các sách khác nữa, chẳng hạn trong việc sai phái từ trên “xuống” và từ dưới “lên”. “Không ai đã lên trời ngoại trừ Con Người, Đấng từ trời xuống” (Ga 3,13); “Tôi từ trời mà xuống không phải để làm theo ý tôi, nhưng để làm theo ý Đấng đã sai tôi” (Ga 6, 38; x Ga 6, 33); “ Thầy lên cùng Cha của Thầy cũng là Cha của anh em” (Ga 20,17). Ngôn ngữ này mặc khải sự tiền hữu của Đức Giêsu và việc Ngài được tôn vinh đều quy về Chúa Cha. Sự sai đi cũng được mặc khải bằng ngôn ngữ có tính hiện sinh về nguồn gốc : Đức Giêsu từ Chúa Cha mà đến (Ga 16, 27.28.30), Ngài từ Chúa Cha mà đến và Ngài “đến cùng Chúa Cha” ,“Đến cùng Đấng đã sai Thầy” (Ga 16, 5.10.17.28). chúng ta cần phải lưu ý đến cách dùng từ vựng, đáng chú ý là “ra đi” và “đến” (x Ga 8,14) cũng như việc dùng các giới từ như : Đức Giêsu “từ Thiên Chúa mà đến” hay “từ Chúa Cha mà đến” (Ga 16, 27-28), “bởi Thiên Chúa” (Ga 8, 42). Rõ ràng Đức Giêsu có nguồn gốc của mình trong Chúa Cha. Đích điểm con đường của Đức Giêsu tương ứng với nguồn gốc và sự sai đi: “Thầy đến với Đấng đã sai Thầy” (Ga 7, 33; x Ga 16, 5), “đến cùng Chúa Cha” (Ga 16, 28). Như thế việc sai đi, xuất phát và đến của Đức Giêsu xác định tương quan Cha – Con trong toàn bộ chiều rộng của nó. Phúc âm theo Thánh Gioan mời gọi những kẻ tin hướng cái nhìn đức tin của mình về cội nguồn và sự hiện diện của Đức Giêsu trong chính Chúa Cha. Đức Giêsu ở bên Chúa Cha và Ngài đã đến trong thế gian. Sự sai đi nói lên hành trình của đời sống Đức Giêsu trong toàn bộ chiều rộng và chiều sâu của nó: từ Chúa Cha đến Chúa Cha. Có thể nói rằng cội nguồn và cùng đích của Chúa Con là một khoảng nối liền nhau. Đức Giêsu hoàn toàn quy hướng về Chúa Cha. Vì vậy việc sai đi mặc khải tính đồng nhất sâu xa của Đức Giêsu bằng những từ ngữ tương quan giữa nguồn gốc và nơi đến. Việc sai đi đó vẫn duy trì tính hiệp thông duy nhất giữa Đức Giêsu với Cha Ngài trong sự đồng nhất về hiện hữu. Chúng ta cần phải chú ý đến điểm “tín lý” chủ đạo của chủ đề về sự sai đi này. Đặc biệt, truyền thống giáo phụ và trung cổ thì chú ý đến tính tương ứng giữa sứ vụ của Chúa Con trong thế giới và nguồn gốc vĩnh cửu của Ngài: cũng như Chúa Con được Chúa Cha sai đến, Ngài thừa kế sự hiện hữu của Cha Ngài. Vả lại một khi học thuyết Ba Ngôi bàn về Ngôi Vị thần linh bằng các từ ngữ về “tương quan nguồn gốc thì nó sẽ không đưa đến một suy lý tách rời khỏi lịch sử cứu độ, nhưng nó sẽ đề xuất một học thuyết được xác lập dựa trên giáo huấn tin mừng liên quan đến Đức Giêsu mà sự hiện hữu của Ngài hoàn toàn có mối tương quan với Cha Ngài.
    Danh xưng Cha nói lên nguồn gốc chuyên nhất của Đức Giêsu đồng thời biểu thị sự gắn bó thân mật chặt chẽ của Ngài với Chúa Cha. Sự thân mật này là một sự hiệp nhất thực sự và nó xuất hiện khá nhiều trong Phúc Âm. Ở đây, chúng tôi không có tham vọng trình bày cách đầy đủ nhưng chúng tôi có thể nhận biết sự hiệp nhất đó qua bốn điểm hay bốn chiều kích như sau:
    1- Sự hiểu biết và tình yêu hỗ tương. Sự hiểu biết hỗ tương tách biệt danh xưng “Cha” và “Con” được biểu lộ rõ rệt trong các Phúc Âm Nhất Lãm : “ không ai biết rõ người Con trừ Chúa Cha cũng như không ai biết rõ Chúa Cha trừ Người Con và kẻ mà Người Con muốn mặc khải cho” (Mt 11, 27; Lc 10, 22 trong một bối cảnh mặc khải). Đức Giêsu mặc khải Chúa Cha bởi vì Ngài là Con và trong tư cách là Con theo sự hiểu biết lẫn nhau bao gồm thực tại mà các danh xưng “Cha” và “Con” biểu thị. Sự hiểu biết hỗ tương này tỏ rõ bản thể Chúa Con nơi Đức Giêsu và mở ra cho con người, và từ những con người này, Chúa con cho họ biết Chúa Cha. Phúc âm theo Thánh Gioan nhấn mạnh cách phong phú rằng Đức Giêsu là Đấng mặc khải Chúa Cha bởi vì Ngài là Con Một và được Chúa Cha sai đến: “Như Chúa Cha biết tôi và tôi biết Chúa Cha” (Ga 10,15); “Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha” (Ga 14, 9). Giáo huấn này được thâu tóm trong Ga 1,18: “không ai đã thấy Thiên Chúa bao giờ nhưng Con Một là Thiên Chúa và là Đấng hằng ở nơi cung lòng Chúa Cha, chính Người đã tỏ cho chúng ta biết”. Đức Giêsu là hiện thân sự mặc khải Chúa Cha bởi vì Ngài là Con Một luôn hướng về Chúa Cha, Ngài mặc khải Chúa Cha không phải chỉ vì cớ Ngài thực hiện một “chức năng”, nhưng vì hữu thể Ngài được xác định bởi tương quan với Chúa Cha. Một cách chính xác, đó là điều mà danh xưng “Chúa Con” biểu lộ. Vì vậy, một khi những kẻ tin biết Đức Giêsu trong tư cách là Chúa Con, thì họ cũng biết Thiên Chúa là cha của Người. Vì hễ thấy Chúa Con chính là biết mầu nhiệm ngôi Cha.
    Sự hiểu biết hỗ tương giữa Chúa Cha và Chúa Con kéo theo tình yêu hỗ tương của các Ngài: “Chúa Cha yêu mến Người Con và giao phó mọi sự trong tay Người”(Ga 3, 35); “Thầy yêu mến Chúa Cha và làm đúng như Chúa Cha đã truyền cho Thầy” (Ga 14, 31); “Chúa Cha yêu mến Người Con và cho người Con mọi điều mình làm”(Ga 5, 20). Tình yêu này đã được bày tỏ nơi phép rửa, trong đó, Đức Giêsu được mạc khải như là Con Thiên Chúa: “Đây là Con Yêu Dấu của Ta, Ta hài lòng về Người” (Mt 3, 17); “Người là Đ?ng Thiên Chúa tuyển chọn” (Ga 1, 34). Tất cả những điều đó chẳng khác nào như sự hiểu biết hỗ tương gi?a Chúa Cha và Chúa Con, tình yêu hỗ tương của các Ngài được mở ra cho con người thông dự những ân lộc; tình yêu này nguồn mạch mặc kh?i và cứu độ của Đức Giêsu. Sự hiểu biết và tình yêu được nối kết với nhau cách sâu xa và tạo nên sự hiệp thông. Như thế, danh xưng Chúa Cha biểu thị tương quan hiệp thông hỗ tương với Chúa Con, Đức Giêsu. Đồng thời, tương quan hiệp thông này mặc khải Chúa Cha và con người Đức Giêsu.
    2. Tương quan giữa Chúa Cha và Chúa Con cũng được xác định bởi sự duy nhất trong hoạt động và quyền năng của mình. Đức Giêsu đã thực hiện các công trình của Cha Ngài (Ga 10, 37; x.Ga 5, 36; 9, 4; 10, 25). Ngài thực hiện các công trình thần linh của Chúa Cha: phục sinh kẻ chết và ban sự sống (Ga 5, 21), Ngài ban sự sống đời đời (Ga 10, 28; 17, 2) bởi vì Ngài có sự sống nơi mình (Ga 5, 26), Ngài thực hiện việc xét xử (Ga 5, 22. 27), Ngài giảng dạy đạo lý của Chúa Cha (Ga 7, 16). Có thể nói, các công trình của Đức Giêsu cũng là công trình của Chúa Cha. Sự duy nhất trong hoạt động này biểu lộ tính nội tại hỗ tương giữa Chúa Cha và Chúa Con: “ Chúa Cha ở trong Tôi và Tôi ở trong Chúa Cha” (Ga 10, 38). Chính Chúa Cha là Đấng đã thực hiện những công việc của mình trong hoạt động của Đức Giêsu (Ga 14, 10). Sự đồng nhất của một hữu thể được biểu lộ qua những gì mình làm nên; thế nhưng, những việc Đức Giêsu làm chứng tỏ rằng Ngài đón nhận mọi sự từ nơi Cha trong sự duy nhất đến độ, trong khi Chúa Giêsu hoạt động cũng chính là Chúa Cha hoạt động. Sự duy nhất trong quyền năng và hoạt động là một khía cạnh quan trọng được biểu thị trong Tin Mừng thứ tư khi Đức Giêsu được chứng thực trong tư cách là người con trong tương quan với cha mình.
    Chữ ký của Bảo_†_Lâm
    phó giáo dân

  2. Có 7 người cám ơn Bảo_†_Lâm vì bài này:


Quyền hạn của bạn

  • Bạn không được gửi bài mới
  • Bạn không được gửi bài trả lời
  • Bạn không được gửi kèm file
  • Bạn không được sửa bài

Diễn Đàn Thánh Ca Việt Nam - Email: ThanhCaVN@yahoo.com