Love Telling ThanhCaVN nhắn với ACE: Chúng con cậy vì Danh Chúa nhân từ, xin cho Linh hồn Cha cố Phêrô (Ns. Kim Long) được lên chốn nghỉ ngơi. Hằng xem thấy mặt Đức Chúa Trời sáng láng vui vẻ vô cùng. Amen! Loan Pham nhắn với ACE: Giêsu Maria Giuse, con mến yêu xin thương cứu rỗi linh hồn Phê-rô Lm. Kim Long sớm được hưởng Nhan Thánh Chúa. Amen Loan Pham nhắn với ACE: Hòa cùng với Giáo Hội Công Giáo Việt Nam với sự ra đi của Lm. Kim Long là Nhạc sĩ quý mến của chúng ta...đó là sự thương xót mất mát rất lớn của Thánh Nhạc Việt Nam... chúng ta hãy cùng dâng lời nguy Loan Pham nhắn với Gia đình TCVN: Hòa cùng Giáo Hội Công giáo Việt Nam với sự ra đi vô cùng thương tiếc của Lm. Kim Long là nhạc sĩ Thánh Ca thân yêu của chúng ta... Chúng ta cùng dâng lời nguyện xin: Giesu Matia Giuse xin thương cứu rỗi linh ThanhCaVN nhắn với ACE: Nhân dịp Sinh Nhật lần thứ 18 Website, BQT-TCVN kính chúc Quý Cha, Quý Tu sỹ Nam Nữ, Quý Nhạc sỹ - Ca trưởng – Ca sỹ, Quý Ân Nhân và toàn thể ACE luôn tràn đầy HỒNG ÂN THIÊN CHÚA. ThanhCaVN nhắn với ACE: Chúng con cậy vì Danh Chúa nhân từ, xin cho Linh hồn ĐTC Phanxicô được lên chốn nghỉ ngơi. Hằng xem thấy mặt Đức Chúa Trời sáng láng vui vẻ vô cùng. Amen!

kết quả từ 1 tới 40 trên 63

Chủ đề: Giới thiệu sách: Chúa Ba Ngôi

Threaded View

  1. #11
    Bảo_†_Lâm's Avatar

    Tham gia ngày: Jan 2012
    Tên Thánh: Pierre-Hilaire
    Giới tính: Nam
    Đến từ: Sài thành
    Quốc gia: Không chọn
    Bài gởi: 284
    Cám ơn
    2,043
    Được cám ơn 2,001 lần trong 281 bài viết

    Default

    Ân Huệ của Chúa Thánh Thần

    Sự biểu lộ Chúa Thánh Thần được tìm thấy ở trung tâm việc mạc khải Chúa Cha và Chúa Con. Dó đó, việc nghiên cứu về Chúa Thánh Thần không cần phải tạo nên một chương cách biệt với điều đã bàn đến trước đây. Do nhu cầu trình bày, nên chúng tôi đã khởi sự chú ý đến Chúa Cha và Chúa Con. Thế nhưng, một cách chính xác, Chúa Thánh Thần chính là sự hiệp thông giữa Chúa Cha và Chúa Con: Ngài là trung tâm của mặc khải của Chúa Ba Ngôi trong tư cách là mầu nhiệm hiệp thông. Chúng ta sẽ trình bày chi tiết một chút giáo huấn của Tân Ước về chủ đề này[1].
    Trong các Phúc Âm theo thánh Matthêu, Maccô và Luca, Chúa Thánh Thần xuất hiện như là tác nhân cứu độ được thực hiện trong Đức Giêsu Kitô và qua Đức Giêsu Kitô. Chính nhờ Thánh Thần mà Đức Nữ Trinh Maria cưu mang Đức Giêsu (Mt 1, 18-20; Lc 1, 35); hoạt động của Chúa Thánh Thần mang lại kết quả là Đấng được sinh ra từ Đức Maria, đó chính là Con Thiên Chúa làm người. Ở đây, Chúa Thánh Thần được xác định bởi hoạt động có tính ngôn sứ (Lc 1: Thánh Thần đến linh ứng cho Đức Maria và Zacaria cũng như bà Élizabeth) và qua hành động sáng tạo (Đức Maria thụ thai bởi phép Chúa Thánh Thần). Trong biến cố phép rửa (Mc 1, 9-11), Thánh Thần cho thấy rằng Đức Giêsu là Đấng Messia đã đến mang ơn cứu độ. Trong đó, Đức Giêsu được giới thiệu như là người nhận ân huệ Thánh Thần. Sự hiện diện của Chúa Thánh Thần xác định phẩm vị vương đế, ngôn sứ và tư tế của Đức Giêsu. Thánh Thần dẫn Đức Giêsu vào sa mạc (Mc 1, 12-13): Ngài là nguồn mạch sự trung thành của Đức Giêsu. Sự kiện Đức Giêsu được Chúa Thánh Thần dầu liên quan đến toàn bộ hoạt động cứu độ của Đức Giêsu, không chỉ khi chịu phép rửa mà là tất cả cuộc sống, sự rao giảng và hoạt động cứu độ của Ngài cho đến hy tế trên thập giá. Chúa Thánh Thần được hứa ban cho các môn đệ như là một sức mạnh làm cho họ trung thành với Đức Giêsu và chứng tá cho Đức Giêsu (Mc 13, 11; Mt 10, 19-20; Lc 12, 11-12).
    Sách Công vụ Tông đồ cho thấy sự liên tục giữa Đức Giêsu và Giáo hội dưới dấu chỉ của Thánh Thần. Thánh Thần là nguồn mạch chứng tá làm triển nở Giáo hội. Ngài được đổ đầy trên Giáo hội nhờ Đức Giêsu được tôn vinh bên hữu Chúa Cha (Cv 2, 23). Chúa Thánh Thần là Luật mới (x. Cv 2, 1-4). Thông thường, ân huệ Thánh Thần liên kết với phép rửa bằng nước (Cv 2, 38). Chúa Thánh Thần, Đấng dẫn dắt sứ vụ của các Tông Đồ, xây dựng Giáo hội bằng cách trở nên nguyên lý thánh hoá bản thân các tín hữu, lấy đức ái khuyến khích họ hoạt động và khơi dậy tâm can họ làm chứng tá cho Tin Mừng. Thánh luca cho thấy rằng, Chúa Thánh Thần liên kết với Đức Giêsu cách chặt chẽ: Ngài thúc đẩy hoạt động nhân loại của Đức Giêsu và Đức Giêsu phục sinh đổ tràn Thánh Thần. Ân huệ của Thánh Thần mang lại sự liên tục giữa đời sống Đức Giêsu, việc thành lập Giáo hội và sự nối dài đời sống Giáo hội. Chúa Thánh Thần thi hành sứ vụ của mình trong việc dẫn dắt Đức Giêsu. Khía cạnh này hãy còn đặc biệt quan trọng cho công cuộc suy tư của chúng ta hôm nay: ân huệ Thánh Thần luôn luôn kéo theo mối liên hệ với Đức Giêsu.
    Theo như giáo huấn này thì Đức Giêsu là người thụ hưởng ân huệ của Thánh Thần (Ngài đón nhận ân huệ Thánh Thần cách sung mãn) và Ngài cũng là Đấng ban ân huệ (Ngài đổ tràn Thánh Thần qua mầu nhiệm phục sinh). Khía cạnh kép này có được tầm quan trọng đặc biệt trong công tác suy tư tín lý liên quan đến Đức Giêsu. Ngài là Thiên Chúa thật và là người thật. Với bản tính nhân loại của mình, Đức Giêsu đón nhận Thánh Thần và chính Ngài chuẩn bị cho Giáo hội cũng đón nhận Thánh Thần như thế. “Thánh Thần này xuống trên Con Thiên Chúa và làm cho Ngài trở thành Con Người: qua đó, cùng với Thánh Thần, Ngài học cho biết cách sống trong loài người, biết đến với con người hệ tại ở trong công trình được Thiên Chúa nắn đúc”[2]. Và qua hoạt động thần linh cùng với sự cộng tác tích cực của hoạt động nhân tính, Đức Giêsu chuyển thông Thánh Thần. Chúng ta sẽ trở lại vấn đề này ở chương cuối của cuốn sách này.
    Giáo huấn của thánh Phaolô về Chúa Thánh Thần thì hết sức phong phú. Thánh Thần liên kết các kẻ tin với Đức Giêsu phục sinh (Rm 8, 9-11). Hoạt động của Chúa Thánh Thần được liên kết cách mật thiết với sự phục sinh của Đức Giêsu (x.Rm 1, 3-4; 8, 11). Thánh Thần đã được Thiên Chúa Cha ban tặng (Rm 8, 11; 1Tx 4, 8; 1Cr 6, 19; 2Cr 1, 22; 2Cr 5, 5; Gl 3, 5. 4,6...) và hoạt động của Ngài đều liên quan với Đức Giêsu. Công việc trước hết của Ngài tuyên xưng niềm tin vào Đức Giêsu là Chúa (1Cr 12, 3). Ngài là Thần Khí của Chúa Kitô: “Ai không có Thần Khí của Đức Kitô thì không thuộc về Đức Kitô” (Rm 8, 9); “Thiên Chúa đã sai Thánh Thần của Con mình vào lòng chúng ta và kêu lên ‘Abba’, Cha ơi!” (Gl 4, 6); Thần Khí của Đức Giêsu Ki tô phù trợ tôi” (Pl 1, 19). Cội nguồn của việc sai đi là Thiên Chúa Cha, nhưng trong sự sai đi này, Chúa Kitô chiếm một vị trí như Thánh Thần được xác định bởi tương quan mà Ngài duy trì với Chúa Kitô. Thánh Thần thì liên quan với Chúa Kitô. Như thế, với thánh Phaolô, các công thức “trong Chúa Kitô” và “trong Thánh Thần” rất gần gũi nhau và đôi khi được dùng thay thế lẫn nhau[3]. Chúa Con và Chúa Thánh Thần là những “tác nhân” riêng biệt nhau: chúng không lẫn lộn nhau. Chúa Kitô hoạt động nhờ Thánh Thần (Rm 15, 18-19), nhưng không có sự ngược lại. Cách hoạt động của Chúa Kitô và của Chúa Thánh Thần phân biệt nhau, nhưng hiệu quả thì như nhau. Thánh Thần ban cho những kẻ tin đón nhận Chúa Kitô, Ngài áp dụng và ghi khắc công trình của Chúa Kitô trong lòng những kẻ tin. Hoạt động của Ngài được đặt trong tương quan với Chúa Cha và Chúa Con cũng như trong tương quan ngôi vị mà các kẻ tin vẫn duy trì với Chúa Cha qua Đức Giêsu. Thánh Thần hoạt động trong sự đồng nhất hoạt động với Chúa Cha và Chúa Con (x.2Cr 13, 13). Điều đó dẫn đến chỗ nhận biết rằng Ngài hiện hữu theo cách mà chúng ta gọi là một “Ngôi vị” như Chúa Cha và Chúa Con.
    Thánh Phaolô đặc biệt nhấn mạnh về đời sống trong Thánh Thần. Chúa Thánh Thần là nguyên lý của đời sống mới mà chính Ngài là luật (Rm 8); Ngài là nguyên lý đem lại tự do (Rm 8, 2; Gl 5, 18 ; x.2Cr 3, 17), nguyên lý của đời sống luân lý và đức tin (Gl 5, 13-25), Ngài là sự bảo đảm và bảo chứng phần gia nghiệp được hứa ban cho những kẻ tin (Ep 1, 14; x.Rm 8, 23; 2Cr 1, 22 và 5, 5). Chúa Thánh Thần đã được ban thực sự cho các tín hữu (Rm 8, 9.11), đồng thời Ngài là Đấng siêu việt và hiện diện trong các kẻ tin. Chúa Thánh Thần hiện diện ngay điểm xuất phát và trung tâm của đời sống Ki tô giáo. Chính trong Thánh Thần mà những kẻ tin được thông phần với Chúa Kitô, để nhờ Người, họ được tự do đến với Chúa Cha (x.Ep 2, 18). Đặc biệt, cách hoạt động của Chúa Thánh Thần được biểu lộ qua vai trò của mình trong việc dưỡng tử những kẻ tin. “Thiên Chúa đã sai Thánh Thần của Con mình đến ngự trong lòng anh em mà kêu lên: Abba, Cha ơi!” (Gl 4, 6). Nhờ Thánh Thần, những kẻ tin được thiết lập trong một tương quan mới với Thiên Chúa, một tương quan xét về bản chất, hoàn toàn khác với tương quan của kẻ nô lệ đối với chủ mình. Bởi vì Ngài là Thần Khí nghĩa tử (Rm 8, 1), và Thần Khí của chính Chúa Con (Gl 4, 6). Thánh Thần liên kết những kẻ tin với Chúa Con thế nào thì Ngài cũng ban cho họ được tham dự vào tư cách làm con của Đức Giêsu như thế, để quay họ về với hình ảnh Đức Giêsu, đến với Cha Ngài. Chính nhờ Thánh Thần mà các ân huệ được phân phát cho các tín hữu (1Cr 12, 4-11), đặc biệt, đức ái là ân huệ cao trọng nhất (1Cr 13, 13) và phát xuất từ sự hiện hiện trong tư cách là Ngôi Thánh Thần: “Thiên Chúa đã đổ tình yêu của Người vào lòng chúng ta nhờ Thánh Thần mà Người đã ban cho chúng ta” (Rm 5, 5; x.13, 10). Khi suy niệm giáo huấn này, một trào lưu thần học Công giáo rộng lớn sẽ giải thích rằng, ngang quan những gì được thực hiện, Thánh Thần đã mặc khải Ngài là Tình Yêu, Ân Huệ và sự Hiệp Thông.
    Thánh Phaolô cho thấy rằng, Chúa Thánh Thần xây dựng Hội Thánh. Ngài là nguồn mạch của việc tuyên xưng đức tin (1Cr 12, 3; x.2, 10), là Đấng qui tụ cộng đoàn các kẻ tin. Ngài xây dựng cộng đoàn kitô hữu trong mối liên hệ tôn thờ của cộng đoàn đó với Thiên Chúa. Cộng đoàn kitô hữu này được xác định nhờ sự hiện diện của Thánh Thần (1Cr 3, 16; x.Pl 3, 3). Sự hiện diện của Thánh Thần là nguyên lý của sự hiệp thông Giáo hội (1Cr 12, 13; x.2Cr 13, 13; Ep 2, 22). Việc xây dựng Hội thánh được thực hiện nhờ sự hiệp nhất với Chúa Kitô: Chúa Thánh Thần mang lại sự hiệp nhất này khi ban đức tin, đức ái và ơn làm nghĩa tử. Việc xây dựng Hội thánh cũng được xây dựng nhờ những ơn riêng, những sứ vụ và đức ái mà Thánh Thần ban cho Hội thánh (và trước hết là qua việc rao giảng Lời Chúa là lời khơi dậy đức tin, x.1Tx 1, 5-6). Những ân huệ khác nhau đó xây dựng Hội thánh nhờ vào Thần khí duy nhất, Đấng là nguồn mạch các ân huệ và mọi hoạt động đều qui hướng về Chúa Kitô (x.1Cr 12). Thần học sẽ giải thích giáo huấn này khi nhìn nhận Chúa Thánh Thần như là hiện thân của Ân huệ. Nhờ Ngài mà mọi ân huệ đã được ban tặng: Thần khí là Ân huệ của Chúa Cha và Chúa Con.
    Tin Mừng theo thánh Gioan cũng cho ta một giáo huấn sâu xa về Chúa Thánh Thần. Cách đặc biệt, thánh sử trình bày tương quan mà Chúa Thánh Thần duy trì với con người Đức Giêsu trong tư cách là Chúa Con và là Đấng được Chúa Cha sai đến. Chiều kích “Kitô” của công trình Chúa Thánh Thần được tìm thấy ở bình diện thứ nhất. Tin Mừng thứ tư cũng cho ta nắm bắt được “ngôi vị tính” của Chúa Thánh Thần. Chính Đức Tân Chân phước Gioan Phaolô II đã lưu ý chủ đề này: “Đặc trưng của bản văn Gioan là Chúa Cha Chúa Con và Chúa Thánh Thần được xưng danh rõ ràng như những Ngôi Vị. Vị thứ nhất phân biệt với vị thứ hai và vị thứ ba, và cả ba vị cũng có sự khác biệt nhau”[4].
    Chúa Con ban tặng Thánh Thần. Đó chính là điểm nhấn quan trọng của khoa Thần Linh Học (“giáo lý về Thánh Thần”) theo Tin Mừng Gioan. Thánh Thần ở với Đức Giêsu (Ga 1, 32-33). Đức Giêsu được đầy tràn Thánh Thần (x.Ga 3, 34-35) và Ngài tuôn đổ Thánh Thần trên các kẻ tin (Ga 7, 38-39). Chúa Con không “phụ thuộc” Thánh Thần, vì Ngài ban Thánh Thần. Đức Giêsu hứa ban Thánh Thần là “Đấng bảo trợ” đến (Ga 14, 16; ...). từ trên thánh giá, Đức Giêsu “trao ban” Thánh Thần (Ga 19, 30; x.19, 34) và Ngài thổi hơi trên các Tông Đồ để thi hành sứ vụ sau khi Đức Giêsu phục sinh (Ga 20, 22).
    Thánh Thần là Đấng bảo trợ (Ga 14, 16-17.26; 15, 26; 16, 7), nghĩa là Đấng bào chữa, trạng sư, phát ngôn viên, Đấng an ủi và là thầy dạy nội tâm. Đấng Bảo Trợ hiện tại hoá công trình của Chúa Kitô trong những kẻ tin, những kẻ mà Ngài dạy dỗ, cứu giúp và gìn giữ trong sự trung tín với Đức Giêsu. Ngài là Thần Khí sự thật (Ga 14, 17; 15, 26; 16, 13). Đấng bảo trợ là chủ thể các hoạt động qui về Chúa Kitô: Ngài ở với các môn đệ Đức Giêsu (Ga 14, 17), Ngài dạy dỗ và nhắc lại giáo huấn của Đức Giêsu (Ga 14, 26), Ngài làm chứng cho Đức Giêsu (Ga 15, 26), Ngài vào trong sự thật vẹn toàn (Ga 16, 13), Ngài tôn vinh Đức Giêsu (Ga 16, 14), Ngài mặc khải sự tốt lành của Đức Giêsu (Ga 16, 14-15). Người ta có thể quan sát tính song song chặt chẽ giữa hoạt động của Đấng Bảo Trợ và hoạt động của Đức Giêsu[5]. Đức Tân Chân phước Gioan Phaolô II đã giải thích rằng, sứ mạng của Thánh Thần- Đấng Bảo Trợ “bắt nguồn từ sứ mạng của Đức Kitô đến mức nào khi nó củng cố và phát triển các kết quả cứu độ của mình trong lịch sử”[6]. Đối tượng sứ vụ của Đấng Bảo Trợ đó là mầu nhiệm Con Thiên Chúa: vì sứ vụ của Đấng Bảo Trợ liên quan đến việc làm cho người ta đón nhận Chúa Con, Đấng dẫn đến với Chúa Cha ngay trong chiều sâu nội tâm của họ.
    Tin Mừng thứ tư cho thấy các tương quan mà Chúa Thánh Thần duy trì với Chúa Cha và Chúa Con. Trước hết, chúng ta hãy lưu ý tương quan của Ngài với Chúa Cha. Chúa Cha ban tặng, sai phái Đấng Bảo Trợ (Ga 14, 16.26). Đấng Bảo Trợ thì loan báo những gì là của Chúa Con và cũng là của Chúa Cha (Ga 16, 14-15). Đấng Bảo Trợ xuất phát từ Chúa Cha và đó cũng là nơi Chúa Con xuất phát. “Khi Đấng Bảo Trợ đến, Đấng mà Thầy sai đến với anh em từ nơi Chúa Cha, Người là Thần Khí sự thật, phát xuất từ Chúa Cha, người sẽ làm chứng về Thầy (Ga 15, 26). Người ta có thể ghi nhận ba khía cạnh sau đây. Thứ nhất, Chúa Cha là nguồn mạch sứ vụ của Đấng Bảo Trợ; thứ hai, sứ vụ của Chúa Con và của Chúa Thánh Thần được liên kết với nhau cách nội tại; thứ ba, Chúa Con can thiệp cách chủ động trong việc Chúa Cha sai phái Thánh Thần. Tin Mừng theo thánh Gioan nhấn mạnh tương quan mà Thánh Thần- Đấng Bảo Trợ duy trì với Chúa Con-Đức Giêsu. Chúng ta hãy xét đến cách vắn tắt tương quan này. Thánh Thần là một “Đấng Bảo Trợ khác” (Ga 14, 16). Cách diễn tả này xác định tha tính nhưng nó cũng nói lên tính liên tục giữa Đức Giêsu và Thánh Thần. Công việc của Đấng Bảo Trợ qui hướng hoàn toàn vào Đức Giêsu: Ngài dạy dỗ và nhắc lại những gì Đức Giêsu dạy bảo, Ngài làm chứng về Đức Giêsu, Ngài tôn vinh Đức Giêsu (Ga 14, 16; 15, 16; 16, 14); Ngài đã được ban cho chúng ta ngang qua việc Đức Giêsu cầu xin và Ngài đã được sai đến nhân danh Đức Giêsu (Ga 14, 16.26). Chúa Con đã tôn vinh, chính Ngài sẽ sai Đấng Bảo Trợ đến từ Chúa Cha (Ga 15, 26; 16, 7). Chúa Cha và Đức Giêsu đều là cội nguồn của Sứ vụ Đấng Bảo Trợ. Công việc của Đấng Bảo Trợ đích xác được đặt nền móng trên mầu nhiệm của cội nguồn này, nghĩa là trên tương quan với Chúa Cha và Chúa Con. Tương quan giữa Chúa Thánh Thần với Đức Giêsu là một tương quan yếu tính: nó cho thấy bản chất và giá trị hoạt động của Đấng Bảo Trợ đều qui hướng về Đức Giêsu; đồng thời nó cũng cho biết tính liên tục giữa công việc của Đức Giêsu và công việc của Đấng Bảo Trợ. Giáo lý Công giáo minh định giáo huấn này khi khẳng định rằng, “nguồn gốc vĩnh cửu của Chúa Thánh Thần được mặc khải trong “sứ vụ thời gian” của Ngài: Chúa Thánh Thần được chúa Cha và Chúa Con sai đến vì hữu thể của Ngài xuất phát từ Chúa Cha và Chúa Con[7].

    Tóm lại, Tin Mừng thứ tư trình bày Chúa Thánh Thần luôn qui hướng về Đức Giêsu, nhờ đó mà Ngài đào sâu và nội tâm hoá sứ vụ của các môn đệ. Hoạt động của Ngài là hiện tại hoá miên trường chính sứ vụ của Đức Giêsu. Nét riêng biệt của Ngài được biểu lộ rõ ràng qua mối tương quan với Chúa Cha và Chúa Con. Ngài là “một Đấng Bảo Trợ khác”. Cội nguồn Chúa Thánh Thần, Đấng được Chúa Cha và Chúa Con sai đến tạo nên nền tảng công trình của Ngài giữa các kẻ tin. Tính cách riêng của Ngài đã gợi lên theo cách thế biểu thị qua các hoạt động mà Ngài đã thực hiện, đặc biệt qua hoạt động đồng nhất của Ngài với Chúa Cha và Chúa Con là những Đấng đã cung ứng một con đường quan trọng để nắm bắt “ngôi vị tính thần linh”của Ngài. Kinh Thánh chẳng nói rõ rằng: “Chúa Thánh Thần là Thiên Chúa”. Nhưng Kinh Thánh chứng tỏ rằng, Chúa Thánh Thần thực hiện chính công việc của Chúa Cha và Chúa Con trong tương quan với các Ngài. Đối với sự hiện hữu của Chúa Thánh Thần trong tư cách là một “ngôi vị” cũng thế. Tân Ước không khẳng định: “Chúa Thánh Thần là một Ngôi Vị”. Tuy nhiên, thánh Thomas d’Aquin đã lưu ý điều đó rằng “Kinh Thánh mặc khải cho chúng ta về Chúa Thánh Thần như là một Ngôi Vị thần linh lập hữu”[8]. Theo như một trào lưu quan trọng của truyền thống Công giáo (thánh Âutinh, thánh Thomas d’Aquin) thì Chúa Thánh Thần được hiểu như là Tình Yêu, và là Ân Huệ giữa Chúa Cha và Chúa Con. Đặc biệt, việc tiếp cận giáo lý này kết hợp với giáo huấn của Tin Mừng thứ tư và giáo huấn của thánh Phaolô.


    [1] Voir Frédéric Manns, « Là où est l'Esprit, là est la liberté », Paris, 1998 ; Jean Galot, L'Esprit Saint, Personne de communion, Saint-Maur, 1997 ; Max-Alain Chevallier, Souffle de Dieu, Le Saint-Esprit dans le Nouveau Testa­ment, 3 vol., Paris, 1978, 1990 et 1991 ; article collectif « Saint Esprit », dans Supplément au Dictionnaire de la Bible, t. XI, Paris, 1991, col. 126-398 ; Yves Congar, Je crois en l'Esprit Saint, 1.1, L'Esprit Saint dans l'« Economie », révélation et expérience de l'Esprit, Paris, 1979, p. 17-91 ; La Parole et le Souffle, Paris, 1984.

    [2] Saint IrÉnÉe de Lyon, Contre les hérésies, III, 17, 1 (SC, 211, p. 331).

    [3] Voir Yves Congar, Je crois en l'Esprit Saint, 1.1, p. 64-65.

    [4] Jean-Paul II, Lettre encyclique Dominum et vivificantem, n° 8 ; La Documentation catholique, 83, 1986, p. 585.

    [5] Edouard Cothenet, art. « Saint Esprit. VI. Le Saint Esprit dans le corpus johannique », dans Supplément au Dictionnaire de la Bible, t. XI, Paris, 1991, col. 367 ; Yves Congar, Je crois en l'Esprit Saint, 1.1, p. 84-85.

    [6] Jean-Paul II, Lettre encyclique Dominum et vivificantem, n° 7 ; p. 585.

    [7] Voir le Catéchisme de l'Église catholique, n° 244.

    [8] Saint Thomas d'Aquin, Somme contre les Gentils, livre IV, chap. 18 (n° 3553).
    Chữ ký của Bảo_†_Lâm
    phó giáo dân

  2. Có 7 người cám ơn Bảo_†_Lâm vì bài này:


Quyền hạn của bạn

  • Bạn không được gửi bài mới
  • Bạn không được gửi bài trả lời
  • Bạn không được gửi kèm file
  • Bạn không được sửa bài

Diễn Đàn Thánh Ca Việt Nam - Email: ThanhCaVN@yahoo.com