|
Chúa Thánh Thần nhiệm xuất từ Chúa Cha và Chúa Con.
Giáo hội Công giáo tuyên xưng rằng : Chúa Thánh Thần nhiệm xuất từ Chúa Cha và Chúa Con. Giáo huấn này tạo nên một sự khó khăn về giáo lý trong việc đối thoại với các Giáo hội Chính thống. Đôi khi, vì lý do tranh luận về đại kết, mà nó cũng gây nên cảm thức riêng đối với chính những người Công giáo trưởng thành. Cho nên, không vội đoán xét sự đào sâu mà biểu thức tín lý Công giáo còn có thể chấp nhận. Điều quan trọng là nắm bắt được giáo huấn truyền thống của Giáo hội Công giáo. Trước hết, chúng ta cần phải phân biệt cách cẩn thận hai điều sau:
10 Sự lồng công thức Filioque “và Chúa Con” (et du Fets) vào trong tín điều của Công Đồng Constantinople của Giáo hội Công giáo;
20 Giáo lý về đức tin tạo nên khía cạnh sâu xa nhất và quan trọng nhất.
Đối với điều thứ nhất, dường như trước hết nó xảy ra ở Espagne và Gaule vào thời Thượng Cổ và Trung Cổ, đó là vấn đề nhiệm xuy của Chúa Thánh Thần “từ Chúa Cha và Chúa Con” đã được đưa vào trong các công thức định tín. Rất có thể đây là cơ hội cần thiết khẳng định niềm tin vào Thiên tính của Chúa Con và Chúa Thánh Thần trước các trào lưu dị giáo Tây phương không nhận biết đầy đủ Thiên tính của Chúa Con. Khẳng định rằng Chúa Thánh Thần nhiệm xuy từ Chúa Cha và Chúa Con, chính là tuyên xưng sự duy nhất đồng bản thể giữa Chúa Cha và Chúa Con và vì vậy cũng khẳng định thần tính thực của Chúa Con cũng như thần tính thực của Chúa Thánh Thần. Công Đồng Tolède III vào năm 589 minh hoạ giáo huấn này: “Chúng ta có bổn phận tuyên xưng và giảng dạy rằng, Chúa Thánh Thần nhiệm xuy từ Chúa Cha và Chúa Con. Và Ngài có cùng một bản thể duy nhất với Chúa Cha và Chúa Con”[1]. Tín điều đức tin Quicumque có khả năng đến từ miền nam xứ Gaule vào cuối thế kỷ thứ V: “Chúa Cha không phải là một sự kiện, Ngài không được tạo thành cũng không được sinh ra bởi một Ngôi Vị nào khác (a nullo); Chúa Con thì duy bởi Chúa Cha (a Patre solo est), không phải là sự kiện, không được tạo thành, nhưng được sinh ra; Chúa Thánh Thần thì từ Chúa Cha và Chúa Con mà ra (a Patre et Filio), cũng không phải là sự kiện, không được tạo thành, cũng không được sin ra nhưng nhiệm xuất”[2].
Việc sử dụng công thức “và Chúa Con” (et du Fils) dần dần đã đi vào trong phụng vụ Tây Phương vào giữa thế kỷ VIII và XI [3]. Dưới triều hoàng đế Charlemagne, các nhà thần học đã có công khuyến khích việc sử dụng công thức đó. Vào đầu thế kỷ XI, dưới thời Giáo Hoàng Bénédicto VIII, công thức Filioque đã được đưa vào Kinh Tin Kính (Credo) của sách lễ Rôma. Các kitô hữu Chính Thống luôn cảm thấy uất ức về sự kiện là Giáo Hội Công Giáo lồng công thức Filioque này vào Kinh Tin Kính. Xét về mặt luân lý, họ coi đây như là một hành động làm tổn thương sự hợp nhất hoàn vũ. Vào năm 1439, Công Đồng Florence giải thích: “Chúng tôi minh định rằng, nội dung minh nhiên trong các từ ngữ “và Chúa Con” (Filioque) đã được thêm vào tín điều theo cách cách hợp pháp và phải lẽ nhằm làm sáng tỏ chân lý và do sự cần thiết cấp bách lúc bấy giôø”[4].
[1] Symboles et définitions de la foi catholique (Denzinger), n° 470.
[2] Symboles et définitions de la foi catholique (Denzinger), n° 75 (trad. fse légèrement modifiée).
[3] Voir Yves Congar, Je crois en l'Esprit Saint, t. m, Le Fleuve de Vie (Ap 22, 1) coule en Orient et en Occident, Paris, 21985, p. 79-88. Voir aussi le Catéchisme de l'Église catholique, n° 247.
[4] Symboles et définitions de la foi catholique (Denzinger), n° 1302 (trad. fse légèrement modifiée). |
|