|
Nếu giáo xứ Đại-Phong là một trong những tiền thân của Tam Tòa đã để lại những hình ảnh thương tâm của giáo dân qua cuộc thiêu sát và lùng bắt người có đạo thì giáo xứ Mỹ Phước vốn có những người dân là tổ tiên Tam Tòa về sau đã để lại danh tính và con số rõ ràng các anh hùng tử đạo đã hy sinh cho lý tưởng tôn giáo.
Theo tư liệu để lại giáo xứ Mỹ Phước thuộc về thôn Mỹ Phước, tổng Đại-Phong, huyện Lệ-Thủy, Quảng Bình lúc đó thuộc quyền quản nhiệm của Linh mục Gioan Baotixita Tống Viết Cơ. Lực lượng Văn Thân với đầy đủ súng ống, gậy gộc tấn công giáo xứ Mỹ Phước, bắt cha sở Tống Viết Cơ (cháu của Thánh Phaolô Tống Viết Bường) đi hành quyết. Giáo dân chạy vào nhà thờ, Văn Thân vây đốt nhà thờ thiêu sát khoảng 442 người vào ngày 13.01.1886. Cùng bị bắt với cha sở và bị giết có một nữ tu Dòng mến Thánh Giá thuộc tu viện Nhu Lý (Quảng Trị) tên là Y. [22] Lúc bấy giờ linh mục Héry (Cố Y) tới đồn Pháp ở Đồng Hới xin giúp đỡ. Chỉ huy trưởng quân đội Pháp ở đây cho một tiểu đội đi theo Cố Y kéo lên họ đạo Mỹ Hương thì giáo dân ở đây không còn người nào cả. Họ chạy trốn sau động cát bờ biển. Cố Y đi tìm và đã gặp giáo dân, đưa họ về giáo xứ Sáo Bùn tạm cư trú tại 3 địa điểm: Sáo Bùn, Sáo Cát Thượng và Sáo Cát Hạ (tức làng Đồng Dương ở hữu ngạn cửa sông Nhật Lệ). Số giáo dân tản mác tìm gặp lại được này gồm 50 nữ tu, các trẻ em mồ côi Viện Dục Anh và 410 giáo dân họ đạo Mỹ Hương. Các họ đạo khác: Đại Phong, Xuân Hồi, Mỹ Duyệt, Mỹ Định, Phụ Việt, Trung Quán cũng bị đốt phá, một số ít giáo dân bị giết. [23] Nếu các cuộc hành trình bảo vệ đức tin của giáo dân các giáo xứ Đại-Phong, Mỹ Hương, Mỹ Phước tìm về vùng đất an toàn để xây dựng lại cơ sở trước bão táp thời cuộc thì giáo xứ Sáo Bùn, tiền thân của Tam Tòa đã đảm trách sứ mệnh lịch sử là vươn rộng cánh tay cưu mang đùm bọc những người anh em ruột thịt trong cảnh dầu sôi lửa bỏng nhưng rồi chính mình cũng không tránh khỏi số phận đen tối của bạo lực dành cho.
Nhắc lại một vài diễn tiến trong danh xưng của giáo xứ Tam Tòa. Gọi tên là họ Động Hải vào thế kỷ XVII bởi lẽ vì nó nằm ở cửa Đồng Hới. Cũng có danh xưng họ Lũy vì nó nằm gần hệ thống lũy Đâu Mâu – Nhật Lệ (xây khoảng năm 1631).
Khoảng từ năm 1797, họ Lũy được gọi nôm na là họ Sáo Bùn, vị trí ở về phía tây nam cách Quảng Bình Quan (quen gọi Cổng Bình Quan) độ 3 cây số. Vì là nơi cư dân sống bằng nghề chài lưới, dùng những tấm sáo tre đan lại giăng trên sông ở những chỗ nước nông đầy bùn đe bắt tôm cá nên gọi là “sáo bùn”. Cụm từ này trở thành địa danh của một giáo xứ, xứ đạo Sáo Bùn.
Trong giai đoạn Văn Thân, sĩ phu tỉnh Quảng Bình cũng nổi lên hưởng ứng hịch Cần Vương với những tên tuổi lừng danh như Nguyễn Phạm Tuân ở làng Kiên Bính, tổng Võ Xá, phủ Quảng Ninh hay Hoàng Phúc làm vệ úy dưới triều Hàm Nghi, và một nhận vật khác mang tính huyền thoại là Cô Tám, con của Hoàng Phúc. Với chiến dịch “bình Tây sát Tả”, phong trào Văn Thân hướng mọi hoạt động tàn sát, bắt bớ, cướp phá đối với các xứ đạo mà như Patrice Morlat cho biết “cuộc khởi loạn lan rộng một phần lớn xứ Trung Kỳ” [24] và Đào Trinh Nhất phải thừa nhận: “Suốt một dãy Trung Việt cho mãi đến ngoài Bắc, Văn thân ứng nghĩa có, giặc cướp thời cơ có, nhao nhao nổi lên, thành ra cả nước rối loạn hết sức, chỉ duy có một hạt Thừa Thiên là được yên ổn mà thôi, vì nhờ có binh Pháp giữ được trị an.” [25] Lúc bấy giờ giáo xứ Sáo Bùn nằm bên tả ngạn sông Nhật-Lệ phía nam cổ thành Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình. Vào tháng 9-1885, khi phong trào Văn Thân bắt đầu phát động tại Quảng Bình, giáo xứ Sáo Bùn dưới quyền quản nhiệm của Linh mục Jean Héry có tên Việt là Cố Y với số giáo dân khoảng 1200 người. [26] Trong khi quân Văn Thân tấn công các giáo xứ ở Nam Thừa Thiên rất sớm khoảng tháng 11-1883, vùng Phú Lộc, họ đạo Truồi, giáo xứ Cầu Hai, Nước Ngọt, Châu Mới, Buồng tằm v.v… và tại Quảng Trị một số giáo xứ như Trí Bưu, Nhu Lý, Bố Liêu, An Lộng, Đầu Kênh, Đại Lộc, Dương Lộc, Thanh Hương, Kẻ Văn… thì các giáo xứ nam Quảng Bình chưa bị hề hấn gì.
Trong chiến dịch “sát Tả” của phong trào Văn Thân, giáo xứ Sáo Bùn phải chịu đựng sự đau khổ qua hai giai đoạn:
- Giai đoạn dưới quyền cha sở Jean Héry (đầu năm 1886 đến Tháng 6-1886): Đầu năm 1886, khi quân Văn Thân khỉ sự tấn công các giáo xứ nam Quảng Bình như Đại Phong, Mỹ Hương, Mỹ Phước, Trung Quán v.v… thì xứ đạo Sáo Bùn vẫn chưa có gì động tĩnh. Cha sở xứ đạo là Cố Y tới gặp chỉ huy quân sư Pháp tại Đồng Hới (đóng trong cổ thành) để xin cứu giúp nhưng bị từ chối vì trước đó họ đã giúp cho Cố hai lần vũ khí để chở vào cho giáo xứ Di Loan và chủng viện An Ninh (tháng 9-1885). Không có phương tiện tự vệ, các giáo xứ nam Quảng Bình phải tìm cách bỏ chạy về tị nạn tại giáo xứ Sáo Bùn. Lúc bấy giờ Sáo Bùn đã trở thành một trung tâm tị nạn lớn, đã mở rộng tấm lòng đón rước tất cả các anh chị em đồng đạo của mình dưới sự tổ chức cứu trợ hết sức chu đáo của cố Y. Không lâu sau đó, tình hình trở lại yên tĩnh và phần đông trở về lại giáo xứ của mình.
Ngày 14.6.1886, linh mục Héry được phép giáo quyền cho rời giáo xứ Sáo Bùn đi Hồng Kông chữa bệnh, sau thời gian 6 năm coi xứ đạo này. Từ Hồng kông, cha Héry về lại Pháp và qua đời tại đó năm 1905.
- Giai đoạn xứ đạo Sáo Bùn dưới quyền linh mục Claude Bonin (tên Việt là Cố Ninh): Linh mục Claude Bonin đến thay cố Y làm cha sở Sáo Bùn, vừa được 10 ngày thì chiều ngày 24.6.1886 quân Văn Thân bất ngờ bao vây, tấn kích giáo xứ Sáo Bùn, đốt nhà dân, giết chết 52 giáo dân đang ẩn trốn trong nhà thờ. Phần đông giáo dân chạy bộ về thành Đồng Hới vì ở đấy có quân lính Pháp đóng. Cha sở Bonin cùng một số giáo dân khác nhanh chân xuống đò cũng chạy về Đồng Hới.
Ngày 5.8.1886, lực lượng Văn Thân do viên chỉ huy tên Cộc đánh vào thành Đồng Hới nhưng bị thất bại và trong vụ này có 3 giáo dân Sáo Bùn bị tử thương.
Cuối năm 1886, linh mục Bonin gom toàn bộ giáo dân xứ đạo Sáo Bùn, cùng một số giáo dân tứ xứ thuộc Đại Phong, Mỹ Hương, Mỹ Phước chạy loạn về Đồng Hới, liên lạc xin chính quyền một miếng đất sát bờ sông Nhật Lệ (trên phần đất của làng Lệ Mỹ cũ) và lập nên một giáo xứ mới gọi là giáo xứ Tam Tòa. Sở dĩ gọi tên giáo xứ Tam Tòa vì ở đây vốn có ba tòa miếu cũ thờ Huyền Trân công chúa, Liễu Hạnh công chúa và Cửu Thiên huyền nữ. Về hành chánh, xứ đạo Tam Tòa có tên làng Đồng Mỹ thuộc thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình.
Phong trào Văn Thân đã nhìn người Công Giáo với con mắt thù địch cho nên mặc dù với chủ trương “bình Tây sát Tả” nhưng trong thực tế họ chỉ biết “sát Tả” mà không dám “bình Tây”.
Sau đây là nhận định của Trần Văn Giàu, một sử gia mác-xít: “Không thể chối cãi rằng phong trào 1874 ở Nghệ Tĩnh là phong trào yêu nước, do Văn Thân yêu nước khởi xướng. Nhưng cũng không thể chối cãi rằng các nhà Văn Thân yêu nước đã làm những điều rất sai chính trị khi họ xem việc “sát tả” là điều kiện thứ nhất của việc “bình Tây”, không biết phân biệt giáo dân bình thường và những giáo sĩ làm tay sai cho giặc Pháp. Họ vơ đũa cả nắm, và vô tình họ đẩy tất cả những người đạo đồ Thiên Chúa qua một bên, bên giặc Pháp. Họ đặt nhiệm vụ “gìn giữ văn minh Nho giáo” cho cuộc vận động, như thế là bó hẹp quá, là hạn chế quá cái ý nghĩa của cuộc vận động, ý nghĩa đó là cứu nước Việt Nam, chớ nào chỉ bảo vệ riêng một đạo nào, bất kỳ Nho giáo, hay Phật giáo, hay Lão giáo. “Bình Tây” chỉ chắc mọi người dân đồng ý, còn “sát Tả” thì vị tất người dân thường đã nhất trí bằng lòng; các nhà Văn thân khởi nghĩa vô hình trung đã tự cô lập mình, càng dễ bị triều đình đánh dẹp.” [27]
Trong cuốn Trần Văn Dư với phong trào Nghĩa hội, Nguyễn Q. Thắng đã trích hai bài từ sách Đặng Đức Tuấn, Tinh hoa Công giáo yêu nước, xuất bản tại Sài Gòn năm 1971 của hai ông Lam-Giang và Vũ Ngọc Nhã: một bài có tên Đại loạn năm Ất Dậu 1885 và bài Dậu Tuất niên phong hỏa kí sự của một tác giả khuyết danh. Nguyễn Q. Thắng viết rằng: “Đương thời tác giả trường thi “Đại loạn năm Ất Dậu 1885”chắc chắn là một giáo dân có tham chánh (?) đã ghi lại biến cố bi thương mà trọng đại này của lịch sử một cách hiện thực và có tính khách quan.” [28] Trong bài “Đại loạn năm Ất Dậu 1885” có những câu viết về phong trào Văn Thân như sau:
“Tưởng giết đạo rồi sung sướng thật.
Lấy trâu bò, ruộng đất cho mau giàu.
Nay bị thằng Tây đánh đạp quá đau,
Thôi đầu cổ lưng vai chi cũng đá.
Trước tưởng đạo với Tây là một lõa,
Nào hay Tây với Đạo khác hai phe.
Đạo chỉ lo nhân đức tu tề,
Tây thì cứ thị hùng hiếp thế…” [29]
Trong bài thi trường thiên Giáo nạn trong quốc biến (Dậu Tuất niên phong hỏa kí sự), tác giả khuyết danh đã viết:
“Những quan bị cách hồi hưu,
Cử, tú, hào mục định mưu lạ đời.
Tận tru dân đạo mọi nơi,
Rày đà gặp hội mượn lời ra tay.
Các trò ứng thí vừa hay,
Bỏ trường, bỏ quyển chạy ngay về nhà.
Bao nài dặm thẳm đường xa,
Bình Tây sát Tả tính là mau quan.
Dụng tử, ấm tử nghinh ngang
Rần rần nổi giận hiệp đoàn diệt Tây.” [30]
Trong một đoạn khác, tác giả khuyết danh Đại loạn năm Ất-Dậu đã viết:
“Giặc Bình Phú đương ngày phản phúc
Tỉnh Quảng Nam lục tục tiếp theo.
Hà Đông dậy trước sát thiêu,
Bao nhiêu nhà đạo, cháy tiêu chẳng còn.
Đạo dân chém giết hao mòn,
Nửa phần thoát khỏi chạy bon ra ngoài.
Thân hào lấy tiếng làm oai,
Tận thâu súng mác tiền tài sạch không.
Phân binh hai đạo tiên phong
Một ra Phú Thượng [31] vây vòng chung quanh.
Một lên Trà Kiệu [32] gần thành,
Trống chiêng vang núi quân binh chật đàng.
Bủa quân vây khắp tứ bàng
Cất lên trại mạc, tính toan chẳng về…”[33]
Phong trào Văn Thân thực chất chỉ là một phong trào giết người cướp của không hơn không kém. Theo tư liệu của Huỳnh Nhuận [34] hiện nay trong tỉnh Bình Định có ba nhà mồ tập thể của các nạn nhân Văn Thân: một tại Gia Hựu (xã Hoài Châu), một tại Thác Đá Bình Chương (xã Hoài Đức, quận Hoài Nhơn), và một Đồng Quả Kim Sơn )xã An Nghĩa, quận Hoài Ân). Sau đây là bài vè của đồng bào Bình Định đã thành sử liệu về vụ Văn Thân sát hại và cướp của các làng Công Giáo trong khu V:
THÂN HÀO SÁT TẢ
Ra Quảng Ngãi giả đón ngăn là Chú Án [35]
Sao còn vây Gia Hựu nát như tương?
Xuống Làng Song đi phủ ủy có Lão Thương [36]
Sao còn đốt Chánh Khoan mù những khói?
Quyết làm hiểm như loài muông sói.
…
Thương thay giáo nhơn khi ấy,
Gửi nắm xương theo sông biển,
Mà rửa bụi trần ai,
Rơi giọt máu với cỏ cây,
Mà nhuần ơn vũ lộ
Vì đạo Chúa chịu lấp chôn hào hố.
…
Phú hình dung trong đám lửa than,
Đã xong cho mũi mác ngoài đàng,
Lại rồi với lưỡi gươm trong cửa.
Thả trôi nổi lúc bụi lau bụi dứa,
Mà phơi chin chiều ruột chưa se.
Mà vắt một lá gan chưa ráo.
Đã đốt trong nhà không cửa tháo,
Còn quăng xuống giếng chẳng đàng lên.
Thương xã sanh thủ nghĩa [37] lòng bền,
Muôn dặm chẳng nao cơn sấm sét.
Kính tuẫn đạo vong thân [38] đại tiết,
Trăm năm không sợ cuộc biển dâu.
…
Dân làng xóm thảy tàng đầu xuất vỹ [39]
Khi trước giả đò như phủ ủy,
Đến nay đà bày mặt hung hoang.
Lấy của người bất luận bạc vàng,
Lấy gạo nồi mâm chi cũng tóm.
Trở mặt lạ cũng trong làng xóm,
Trâu bò hòm trấp thảy đều thâu!
Ngoài miệng rằng xướng nghĩa làm đầu,
Chánh ý thiệt giết người lấy của.
Đương khi ấy giáo nhơn,
Cam liều chết đặng về cùng Thiên Chúa.
Tấm lòng vàng đá,
Tân, Châu, Hoàng, Minh, Sĩ, Chung, Thành [40]
Quyết xã sanh cho được tới Thiên Đình,
Tấc dạ sắt đinh,
Thông, Mão, Hậu, Bảo, Trang, Nhứt, Lý [41]
Các tỉnh giáo sư cùng giáo sĩ,
Cũng cam lòng vì đạo liều mình.
Mọi nơi phước viện chốn tu trinh,
Đã nhiều kẻ quyên sinh trí mạng,
Bằng thuật đủ tóc tơ quá ngán,
Hãy nói qua sơ lược ít tờ.
Hai trăm mười bốn sở nhà thờ,
Tính lại mười phần đã ráo.
Bốn mươi ngàn người bổn đạo,
Sót lại còn muôn rưỡi là may.
Một là vì ý Chúa cao dày…
…
Đã khiến nên ong dậy muôn trùng [42]
Mà vắng tiếng rồng ngâm một mối. [43]
Các bài vè viết cảnh cướp bóc, chém giết ở Bình Định, mô tả cảnh tượng sát tả ở Quảng Nam cũng là những bản sao thảm trạng đã xảy ra ở Thừa Thiên, Quảng Trị, Quảng Bình. Gia Hựu cũng như Sáo Bùn, Làng Song cũng như Đại Phong, Mỹ Hương, nào có khác chi? Thật là thê thảm cho tình trạng người Công Giáo lúc bấy giờ. Nói chung chính sách của Văn Thân “chỉ chú trọng chém giết và cướp của, không có một sách lược uyển chuyển để thêm bạn bớt thù, nên dần dà bị cô lập và tự tiêu diệt nhường chỗ cho sự yên hàn mà mọi người đang mong đợi. ”[44]
|
|