|
Chương V: Hãy khiển trách, ngăm đe, khuyên nhủ, với tất cả lòng kiên nhẫn và chủ tâm dạy dỗ (2Tm 4,2)
Được vị chỉ huy cho phép, ông Phao-lô đứng trên bậc thềm giơ tay làm hiệu cho dân. Mọi người im phăng phắc; ông Phao-lô nói với họ bằng tiếng Híp-ri: “Thưa quý vị là những bậc cha anh, xin nghe những lời biện bạch tôi nói với quý vị bây giờ đây.” Khi nghe thấy ông nói với họ bằng tiếng Híp-ri, họ càng yên lặng hơn. Ông nói tiếp: “Tôi là người Do-thái, sinh ở Tác-xô miền Ki-li-ki-a, nhưng tôi đã được nuôi dưỡng tại thành này; dưới chân ông Ga-ma-li-ên, tôi đã được giáo dục để giữ Luật cha ông một cách nghiêm ngặt. Tôi cũng đã nhiệt thành phục vụ Thiên Chúa như tất cả các ông hiện nay. Tôi đã bắt bớ Đạo này, không ngần ngại giết kẻ theo Đạo, đã đóng xiềng và tống ngục cả đàn ông lẫn đàn bà, như cả vị thượng tế lẫn toàn thể hội đồng kỳ mục có thể làm chứng cho tôi. Tôi còn được các vị ấy cho thư giới thiệu với anh em ở Đa-mát, và tôi đi để bắt trói những người ở đó, giải về Giê-ru-sa-lem trừng trị. “Khi trở về Giê-ru-sa-lem, đang lúc tôi cầu nguyện trong Đền Thờ, thì tôi xuất thần và thấy Chúa bảo tôi: ‘Mau lên, hãy rời khỏi Giê-ru-sa-lem gấp, vì chúng sẽ không nhận lời anh làm chứng về Thầy đâu.’ Tôi thưa: ‘Lạy Chúa, chính họ biết rõ con đây đã đến từng hội đường bắt giam và đánh đòn những kẻ tin Chúa. Khi người ta đổ máu ông Tê-pha-nô, chứng nhân của Chúa, thì chính con cũng có mặt, con tán thành và giữ áo cho những kẻ giết ông ấy.’ Chúa bảo tôi: ‘Hãy đi, vì Thầy sẽ sai anh đến với các dân ngoại ở phương xa.’” (Cv 21:40;22:1-5.17-21)
Mặc dù không xác định rõ ràng cá nhân mình “là thầy dạy”, trừ trong các thư gửi ông Timôthê (xc. 1Tm 2,7; 2Tm 1,11), Thánh Phaolô vẫn nhận mình là một trong những người hoàn thành tốt đẹp vai trò này, vừa cảnh báo lẫn khích lệ, vừa khen ngợi lẫn sửa bảo.
Mỗi khi thánh Phaolô tuyên dương các tín hữu trong các thư ngài gửi cho họ, ngài đều dùng những lời lẽ hăng say và chan chứa những lời nói tốt đẹp. Ngài nói với những người Thessalônica: “chúng tôi hãnh diện về anh em trước mặt các Hội Thánh của Thiên Chúa, vì lòng kiên nhẫn và lòng tin của anh em trong mọi cơn bắt bớ và gian truân anh em phải chịu” (2Tx 1,4). Rồi thánh nhân tạ ơn Thiên Chúa, khen ngợi họ “vì lòng tin, vì nỗi khó nhọc họ gánh vác, vì lòng yêu mến”, và vì “sự kiên nhẫn chịu đựng do lòng trông cậy vào Chúa chúng ta là Đức Giêsu Kitô”[1].
Về đề tài “quyên tiền giúp các thánh” (xc. 1Cr 16,1), thánh nhân cho thấy sự “khó nghèo cùng cực” của các Hội Thánh tại Makêđônia (Philíp, Thessalônica, Bêroa) đã biến họ thành những người giàu lòng quảng đại (2Cr 8,2). “Tôi xin làm chứng rằng theo khả năng của họ, và quá khả năng của họ nữa, một cách tự nguyện, họ khẩn khoản nài xin chúng tôi cho họ được phúc tham dự vào việc phục vụ các thánh. Họ đã vượt quá điều chúng tôi mong ước là tự hiến mình trước tiên cho Chúa, rồi cho chúng tôi…” (2Cr 8,3-5; X. Gl 4,15; Pl 1,5; 4,14-16; 1Tx 1,8; 2Tm 1,4-5).
Thánh nhân viết cho các tín hữu Côrintô: “tôi rất tin tưởng anh em, tôi rất hãnh diện về anh em” (2Cr 7,4). Thánh nhân dành cho họ tình cảm đặc biệt: “tôi sẽ rất vui lòng tiêu những gì tôi có, và tiêu hao tất cả con người tôi vì linh hồn anh em” (2Cr 12,15). Dầu vậy, thánh nhân không ngần ngại nói rõ họ chưa phải là gương mẫu và đáng tin, mà vẫn còn là những người “sống theo xác thịt, những trẻ nhỏ trong Đức Kitô” (1Cr 3,1) giữa họ vẫn có những chia rẽ (xc. 1Cr 1,10-13; 2Cr 12,20); họ là những người kiêu ngạo (xc. 1Cr 4,18-19), sống gian dâm (xc. 1Cr 5,1), một số người khác lại kiện cáo nhau, để cho những người ngoại đạo xét xử (xc. 1Cr 6,1-7); và họ đã có những lạm dụng nghiêm trọng trong việc cử hành Thánh Thể (xc. 1Cr 10,14-30). Thoạt đầu, Thánh Tông Đồ giữ thái độ kiên nhẫn và yên lặng, tuy nhiên, thái độ ấy không đạt được mục đích mà còn kích động thêm những người gây rối loạn, họ tố cáo thánh nhân là yếu nhược. Vì thế thánh nhân đổi thái độ, xác định rằng khi đến nơi, thánh nhân sẽ chỉ cho họ thấy “ý nghĩa lời lẽ nghiêm khắc trong các thư” (xc. 1Cr 10,10). Thánh nhân cũng xác định rằng, “sẵn sàng sửa trị mọi sự bất tuân” (2Cr 10,6), và như ngài đã đe, sẽ không loại trừ việc sử dụng roi vọt (1Cr 4,21).
Dù vậy, thánh Phaolô cảm thấy cần phải bày tỏ lý do trong việc nghiêm khắc sửa trị: “tôi viết những lời đó không phải để làm anh em xấu hổ, nhưng là để khuyên bảo anh em như những người con yêu quý của tôi” (1Cr 4,14). Thánh nhân còn giải thích thêm: “tôi đã phải gian nan nhiều, con tim se thắt, nước mắt chan hòa khi viết cho anh em: tôi viết không phải để làm cho anh em buồn phiền, nhưng là để cho anh em biết tôi hết lòng yêu mến anh em” (2Cr 2,4).
Thánh nhân còn viết: “tôi khuyên bảo anh em như những người con yêu quý của tôi. Thực vậy, thánh nhân xác định: “tôi đã cho anh em uống sữa” (1Cr 3,2); cho dẫu anh em có ngàn vạn giám hộ trong Đức Kitô, anh em cũng không có nhiều cha đâu, bởi vì trong Đức Kitô Giêsu, nhờ Tin Mừng, chính tôi đã sinh ra anh em” (1Cr 4,14-15).
Và như một người cha, thánh Phaolô sẵn sàng tha thứ. Lý do duy nhất đẻ ngài mạnh tay xử phạt là hy vọng làm cho các con cái của mình biết hồi tâm nghĩ lại (2Cr 3,12).
Thánh nhân không ân hận vì đã khiển trách họ: “dù trong bức thư trước tôi có làm cho anh em buồn phiền, tôi cũng không hối tiếc. Mà giả như có hối tiếc – vì thấy rằng bức thư ấy đã làm cho anh em buồn phiền, tuy chỉ trong một thời gian ngắn -, thì nay tôi lại vui mừng, không phải vì anh em đã buồn phiền, nhưng vì nỗi buồn phiền đó làm cho anh em hối cải” (2Cr 7,8-9).
Với các tín hữu Thessalônica, thánh Phaolô cư xử dịu dàng, như người mẹ hiền với các con của mình. Thánh nhân quan tâm nhiều đến họ đến nỗi sẵn sàng chia sẻ với họ không những Tin Mừng của Thiên Chúa mà cả mạng sống của mình nữa, vì họ đã trở nên những người thân yêu của ngài (xc. 1Tx 2,7-8). Thánh nhân khuyên bảo họ “như cha đối với con” (1Tx 2,1-11).
Tuy nhiên thánh nhân không nương tay với những người làm xáo trộn đời sống cộng đoàn, như được chứng tỏ trong cách sử dụng các từ ngữ: “những kẻ giả danh là anh em, những kẻ dò xét (Gl 2,4), những kẻ xuyên tạc Lời Chúa (2Cr 2,17), những tông đồ giả, thợ gian giảo, đội lốt tông đồ của Đức Kitô, đồ đệ của Satan, những kẻ đội lốt người phục vụ sự công chính” (2Cr 11,13-15).
Mặc dầu thánh Phaolô coi những người Galat như những người con bé nhỏ mà ngài phải vất vả cho đến khi “Đức Kitô hình thành nơi họ” (Gl 4,19), và mặc dù họ rất quý trọng thánh nhân, đến nỗi họ có thể móc mắt hiến cho ngài (xc. Gl 4,15), thánh nhân cũng không ngần ngại gọi họ là “những người ngu xuẩn” và “không hiểu biết” (Gl 3,1,3). Thánh nhân viết cho họ cách rõ ràng đầy kinh ngạc: “nếu có ai loan báo cho anh em một Tin Mừng khác với Tin Mừng anh em đã lãnh nhận, thì chớ gì kẻ ấy bị tru diệt” (Gl 1,9). Thánh nhân châm biếm “những kẻ gây xáo trộn” trong cộng đoàn hãy tiếp tục thực hành việc cắt bì và tự hoạn chính mình: “phải chi những kẻ làm cho anh em bị rối loạn, hãy tự thiến cho rồi!” (Gl 5,12). Thánh nhân khuyến khích mọi người thực thi đức bác ái; nhưng nếu họ không làm như vậy, thánh nhân châm biếm họ: “nếu anh em cắn xé và ăn thịt nhau, thì hãy coi chừng, kẻo anh em tiêu diệt lẫn nhau đấy!” (Gl 5,15).
Thánh Phaolô cũng dùng một số lời nghiêm khắc với người Philíp, cảnh báo họ đừng để bị mê hoặc bởi những người rao giảng sự cắt bì: “anh em hãy coi chừng quân chó má! hãy coi chừng bọn thợ xấu! hãy coi chừng những kẻ cắt bì giả hiệu!” (Pl 3,2).
Thánh nhân kêu mời môn đệ Timôthê noi gương ngài: “hãy rao giảng Lời Chúa, cứ lên tiếng lúc thuận tiện cũng như lúc không thuận tiện; hãy khiển trách, ngăm đe, khuyên nhủ với tất cả lòng kiên nhẫn và chủ tâm dạy dỗ” (2Tm 4,2). Người mục tử đích thực không để mình bị ngã gục vì những bất mãn; không được nản lòng vì những trì trệ ban đầu, nhưng phải có sức mạnh tinh thần và lòng kiên nhẫn để bắt đầu lại trong lòng tin.
Không phải lúc nào Thánh Phaolô cũng dùng những lời lẽ tâm tình như vậy; nhiều lúc thánh nhân không thể không nóng giận trước sự chống đối của những kẻ “giả danh là anh em” (xc. Gl 2,4) Tuy nhiên, trong chuyện này, thánh nhân không xử sự vì mất kiên nhẫn, nhưng chỉ vì lòng nhiệt thành khi nhìn thấy công việc loan báo Tin mừng của mình bị phá hoại một cách bất công (xc. Gl 3,1-4; Pl 3,2).
Thánh nhân còn tìm kiếm những cách khác nhau để loan báo Tin Mừng (xc. Pl 1,18), nhưng không phải là trình bày một Đức Kitô khác; cũng không phải là ông Môsê thay thế Đức Kitô (xc. 2Cr 11,4; Gl5,1-4). Mối bận tâm duy nhất của ngài là chân lý và ơn cứu độ. Vì thế, thánh nhân không thể yên lặng; nhưng trong những gì có liên quan đến ngài, ngài khiêm tốn và nhẫn nại đón nhận đau khổ và nhục nhã. “Bị nhục mạ, chúng tôi chúc lành; bị bắt bớ, chúng tôi chịu đựng; bị vu khống, chúng tôi đem lời an ủi” (1Cr 4,12-13). Thánh nhân sẵn sàng dùng “roi vọt” (dùng sức mạnh) nếu đó là vấn đề bảo vệ sự toàn vẹn của sứ điệp Kitô giáo, dầu vậy, ngài vẫn ưa thích “tình yêu và lòng hiền hòa hơn” (1Cr 4,21).
Sức mạnh tinh thần của thánh Phaolô được thể hiện qua nhiều đường lối trái ngược nhau. Khi thấy anh em không tuân theo Tin mừng, thánh nhân sẵn sàng, nếu cần, “đối đầu với Kêpha (Phêrô)”, tuỳ theo hoàn cảnh, và tố cáo ông Kêpha cũng như ông Barnabê vì thái độ giả hình (xc. Gl 2, 11-14), nhưng thánh nhân lại trở nên không quyết đoán khi phải bày tỏ quan điểm của mình…
Để không làm giảm đi cơ hội loan báo Tin Mừng (xc. Cv 22,25-29), thánh nhân né tránh để không bị đánh đòn, nhưng ngài chấp nhận yêu cầu của giám mục Giêrusalem (Giacôbê) để đi vào đền thờ và đồng hành với bốn người đồng hương, những người muốn hoàn tất ước nguyện của dân thành Nazaret (xuống tóc) mặc dù ngài cho rằng điều đó không còn cần thiết nữa (xc. Cv 21,23-24).
Thánh nhân không ngần ngại trao nộp một người anh em lầm lạc cho Xatan (xc. 1Cr 5,5), nhưng nếu đó là việc cứu với một người anh em, hay không đặt ngăn trở cho đức tin của anh ta, thì thánh nhân sẵn sàng hiến cả mạng sống của mình cách vô điều kiện: “nếu của ăn mà làm cớ cho người anh em tôi sa ngã, thì tôi sẽ không bao giờ ăn thịt nữa, để khỏi làm cớ cho người anh em tôi sa ngã” (1Cr 8,13).
[1] 1Tx 1,3; Người Côrintô cũng được khen ngợi vì đã “kiên trì” với Tin Mừng mà Thánh Phaolô đã rao giảng cho họ (X. Cr 15,1). |
|