|
CHA DƯỚI ĐẤT, CHA TRÊN TRỜI
'' Thưa quan, tôi kính Thiên Chúa như thượng phụ, kính vua như chung phụ và kính song thân như Hạ Phụ. Không thể nghe lời cha ruột mà hại vua, tôi không vì vua mà phạm đến Thượng Phụ là Thiên Chúa được''.
Vị tử đạo có những lời phân tích mạnh lạc quan niêm về trung, hiếu của giáo hữu Việt Nam như trên la một linh mục dòng thuyết giáo: cha Phê-rô Nguyễn văn Tự.
Sính quán tại Ninh Cường, huyện Nam Chân, tỉnh Nam Định năm 1796. Cậu Phê-rô Tự dâng mình cho Chúa từ thiếu nhiên. Năm 1826, thầy thụ phong linh mục, sau đó xin vào dòng Đa Minh và được cha chính A-man-đi Chiêu nhận lời khấn ngày 4/1/1827. Suốt 12 năm đời linh mục, cha Phê-rô là một tu sĩ gương mẫu và là cha truyền giáo nhiệt thành. Hồ sơ phong thánh ghi nhận cha luôn tận tụy với công việc, không quản ngại khó khăn, luôn đối xử hòa nhà và rất mực yêu thương mọi người.
Năm 1838, cha Tự được cử phụ trách xứ Đức Trai còn gọi lả Kẻ Nốt, thuộc tỉnh Bắc Ninh. Lúc này cuộc bách hại của vua Minh Mạng kha gay cấn, nên cha phải thi hành tác vụ của mình lén lút. Một thân hào tên Quang đã cho cha đến trú ẩn vườn nhà ông. Mỗi sáng cha dâng lễ trong vườn đó. Ngay29/6, khi quân lính kéo đến bao vây làng Kẻ Nốt để bắt cha Tự, thì được anh chị em tĩn hữu đưa lánh sang làng bên. Nhưng quân lính sau khi lục soát, tìm thấy áo lễ và chén dâng lễ của cha, tập chung dân tra khảo và đánh đập. Nhiều tĩn hựu đã chịu đựng không tiết lộ nơi ở của Cha, đến lượt ông Ninh mới bị dọa đánh đã khai ra chỗ cha đang trú ẩn. cùng bị bắt với cha Tự có mấy thầy giảng dòng Đa-Minh Uý, dòng bà Đa Minh 26 tuổimột trợ tá đắc lực của ngài.
Khi bị giải về huyện Lương Tài, quan huyện ngỏ ý đòi vị linh mục nộp tiền chuộc, nhưng Cha bình tĩnh trả lới: '' Đối với tôi, bị bắt vì đạo là một hồng ân mà Thiên Chúa ban, tiền bạc thì tôi không có, còn phiền giào hữu thì tôi không muốm chút nào''. Đến ngày 3/7, sau khị bắt thêm được bốn ông trùm họ và một số giào sĩ trong vùng, quan cho áp giải về Ninh thái ( thị xã Bắc Ninh ngày nay ).
Sáng hôm sau, quan cho gọi Cha Phê-rô ra hỏi. Ông lịch sự cho mời Cha vào nhà, cho Cha ngồi ghế tử tế, rồi với giọng ngọt ngào, quan yêu cầu khai tên các giào sĩ giáo phận. Cũng bằng giọng lịch sự không kém. Cha thong thả kể tên hai Đức Cha và sáu linh mục, những người đã bị bắt rồi, thế cũng đủ làm cho viên quan gật gù ra vẻ đắc ý lắm. Một tuần sau, ông lại cho mới Cha đến và yêu cầu cằt nghĩa về các đồ thờ, áo lễ, chén lễ của Cha mà họ tịch thu. Cha được dịp giảng giáo lý công giáo cho các quan nghe, bác bỏ các tìn đồ bịa đặt về đạo, về các nghi lễ, cũng như các giáo hữu.
Trong thời gian bị giam tại huyện, bất ngờ Cha Tự thấy trong sổ sách của mình bị tịch thu, có cuốn sổ ghi tên tất cả các gião hữu ở Kẻ Nốt, ngài tìm cách để hủy nó đi, nhưng làm sao bây giờ? vì quân lính canh gác kỹ quá. Cha liền bày kế xin họ một cái chiếu, lấy cớ đắp cho đỡ muỗi, rồi năm trong chiếu, cha nhẩm nha nhai và nuốt hết cuốn sổ ấy. Dĩ nhiên ''món ăn'' này không hợp khẩu vị chút nào, nên mới ăn được hai phần, cha đã thấy rát cả cổ, không thể nuốt nổi nửa, thế là cha đành nhai cho nát và ném xuống gậm gường.
Điều cha đau lòng nhất là thấy những người bị bắt với cha đã đạp lên Thánh Gia1 đê được về. Cha không ngừng nhắc nhở lời Chúa xưa'' Ai chối thầy chước mặt người đời, thầy sẽ chối người ấy chước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời''. (t10,33). Cha nói tiếp: '' Trời đất qua đi, nhưng lời Thiên Chúa chẳng qua'' (Mt5,18), ''Hãy tỉnh thức và cầu nguyện, kẻo sa chước thử thách'' (Mt26,41)... Nhưng cha vẫn được an ủi của hai thầy giảng Phan-xi-cô Mậu, Đa-Minh Uý và bốn giáo dân Giu-se Cảnh, Tô-ma Đệ, Au-gút-tin Mới và Stê-pha-nô Vinh. tất cả là hội viên dòng Đa-Minh sau này được vĩnh phúc tử đạo (19/12/1838).
Ngày 27/7/1838, Tổng Đốc Bắc Ninh để án về chiều xin xử giáo Cha Phê-rô và ông trùm Cảnh, còn năm người kia, đánh mỗi người 100 roi, rồi phạt lui họ vào Bình Định. Nhưng vua phúc đáp trên yêu cầu tra hỏi lại, nếu bỏ đạo thì ân xá, nếu không chịu thì xử chém hai vị trên và xử giao năm vị còn lại. |
|