II. CHÚNG CON NGUYỆN DANH CHA CẢ SÁNG

... “Một ngày sẽ ra sao nếu chúng ta không hề cầu nguyện? Thưa, ngày đó giống như ngày - linh hồn là ái nữ của Thiên Chúa - không hề kính chào và thưa chuyện với Thiên Chúa là CHA mình” (nữ chân phước Elena Guerra). ... Vậy thì, không nên để ngày nào qua đi mà không đọc - ít là một lần - lời kinh do chính Chúa GIÊSU dạy:

Lạy CHA chúng con ở trên Trời; Chúng con nguyện danh CHA cả sáng; Nước CHA trị đến; Ý CHA thể hiện dưới đất cũng như trên Trời. Xin CHA cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày; Và tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con; Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ; Nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ. Amen.

Kinh LẠY CHA là Kinh hoàn hảo nhất trong mọi lời kinh. Nơi Kinh LẠY CHA gồm trọn mọi nhân đức: tin, cậy, mến, nhẫn nhục, phó thác, cầu xin, thống hối và từ bi. Mỗi khi đọc Kinh LẠY CHA, - nơi bốn lời nguyện đầu -, tín hữu cầu nguyện với toàn thể triều thần thiên quốc. Tiếp đến, rời khỏi thiên cung nơi đang đón chờ mình, tín hữu trở xuống trần gian, giơ cao đôi tay lên Trời. Tín hữu khẩn cầu những điều cần thiết cho cuộc sống và kêu xin sự trợ giúp để dành chiến thắng, hầu có thể trở về Thiên Quốc chiêm ngưỡng Thánh Nhan Thiên Chúa đến muôn đời.

Chỉ duy nhất Chúa GIÊSU KITÔ, Đấng Cứu Độ thế giới, mới có thể truyền cho con người đọc Kinh LẠY CHA. Chỉ duy nhất Đấng là Tình Yêu mới có thể dạy con người lời Kinh LẠY CHA. Bởi vì qua Kinh LẠY CHA, nhân loại được hồng ân trở thành con cái của Đấng Tối Cao và anh em với Đức GIÊSU KITÔ. Nếu có người nào đó, bị cám dỗ nghi ngờ về tình yêu Thiên Chúa, nghi ngờ về nguồn gốc mình được dựng nên giống hình ảnh Thiên Chúa, hãy đọc và suy gẫm Kinh LẠY CHA.

Lời Kinh LẠY CHA gieo vào lòng con người một tâm tình ghi ơn trìu mến vì có được một Người Cha, ngự trên Trời, Đấng không ngừng thi ân giáng phúc cho con cái loài người. Khi xuống thế nhập thể, Thiên-Chúa-Con cũng muốn có một người cha nuôi là thánh cả GIUSE. Chính thánh cả GIUSE chăm sóc Đức GIÊSU trong thời thơ ấu và lúc Ngài còn xuân trẻ. Với cuộc sống nơi gia đình Nagiarét, có cha có Mẹ, Chúa GIÊSU muốn dạy loài người hiểu rằng: “Thật cao cả biết bao gương mặt và địa vị của người cha”! Nếu người cha trần thế như vậy, hình ảnh của Người Cha Thiên Quốc phải cao cả và êm ái muôn ngàn lần gấp bội.

1. CHÚNG CON NGUYỆN DANH CHA CẢ SÁNG

...Thiên Chúa phán cùng Môi-sen: Hãy nói với Aaron và con cái ông rằng: Các ngươi hãy chúc lành cho con cái Israel, hãy nói với chúng thế này: "Xin Thiên Chúa chúc lành cho con và gìn giữ con, xin Chúa tỏ nhan thánh Chúa cho con và thương xót con. Xin Thiên Chúa ghé mặt lại cùng con và ban bằng yên cho con”. Chúng sẽ kêu cầu Danh Ta trên con cái Israel và Ta sẽ chúc lành cho chúng (Dân Số 9,22-27).

Trên Thiên Quốc, toàn thể triều thần chư thánh và các Tổng Lãnh Thiên Thần không ngừng chúc tụng: “Thánh! Thánh! Chí Thánh! Đức Chúa là Thiên Chúa Toàn Năng, Đấng đã có, hiện có và đang đến .. Lạy Chúa là Thiên Chúa chúng con. Ngài xứng đáng lãnh nhận vinh quang, danh dự và uy quyền. Vì Ngài đã dựng nên muôn vật, và do ý Ngài muốn, mọi loài liền có và được dựng nên” (Khải Huyền 4,8+11).

Mỗi khi đọc Kinh LẠY CHA, con người kết hiệp cùng đạo binh Thiên Quốc, cất tiếng tung hô Danh Thánh Đấng Tối Cao là Cha Nhân Lành. Con người đọc lời “nguyện danh CHA cả sáng” với trọn tâm tình tri ân của người con thảo, dâng lên Đấng là Thánh trên hết mọi người thánh. Khi đọc lời “nguyện danh CHA cả sáng”, tín hữu cũng đặc biệt hướng về Chúa GIÊSU, Đấng là Con Thiên-Chúa-Cha. Nơi cuộc đời dương thế, Chúa GIÊSU đã dạy con người phải tôn vinh thánh Danh Thiên-Chúa-CHA như thế nào. "Lạy CHA là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen CHA, vì CHA đã giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn. Vâng, lạy CHA, vì đó là điều đẹp ý CHA"(Mt 11,25-26).

Trong niềm vui cũng như trong nổi sầu, lúc tràn đầy ánh sáng cũng như khi gặp tăm tối, trong an bình cũng như lúc trải qua thử thách, người tín hữu một mực thân thưa cùng Thiên Chúa: “nguyện danh CHA cả sáng”. Phúc cho người con nào, không bao giờ nghi ngờ về tình thương của CHA mình. Trong bất cứ giờ phút nào, nơi bất cứ môi trường nào, trong bất kỳ hoàn cảnh nào, phúc cho người luôn biết trung thành chúc tụng: “nguyện danh CHA cả sáng”!

... Đầu năm 1967, bà Svetlana Allilouieva - ái nữ của Iossif Staline (1879-1953) - tự ý rời bỏ Moscou, thủ đô Cựu Liên Xô, để xin tỵ nạn tôn giáo tại Hoa Kỳ. Quyết định này làm ngạc nhiên, nếu không muốn nói là gây công phẫn cho giới cầm quyền Moscou lúc bấy giờ. Thêm vào đó, những lời tuyên xưng đức tin của bà, làm cho giới lãnh đạo Liên Xô lúng túng không ít.

Vừa đặt chân lên đất Hoa Kỳ, bà Svetlana liền trao cho cảnh sát bản tuyên ngôn sau đây: “Quyết định rời bỏ Liên Xô là một quyết định hoàn toàn cá nhân, dựa trên những tâm tình riêng tư và những kinh nghiệm của chính tôi. Tôi không hề bị ai xúi giục, khuyên bảo hay giúp đỡ, để tôi rời bỏ Moscou cả.. Từ thời thơ ấu, người ta đã dạy tôi biết chủ thuyết cộng sản, và tôi đã tin vào chủ thuyết này, như bao người trẻ ngây thơ đáng thương khác. Nhưng rồi với thời gian, với tuổi tác và với kinh nghiệm, những xác tín của tôi từ từ biến đổi. Thêm vào đó, tôn giáo đã hoàn toàn thay đổi con người tôi. Tôi sinh trưởng trong một gia đình vô thần: cha mẹ không bao giờ nói đến Thiên Chúa, cũng không bao giờ đề cập đến vấn đề tôn giáo. Nhưng khi trưởng thành, tôi nhận thức rằng: “Con người không thể sống mà chối bỏ Thiên Chúa khỏi con tim và khỏi tâm hồn mình. KHÔNG. KHÔNG THỂ ĐƯỢC. Từ nhận thức này, tôi từ từ khám phá ra sự hiện hữu của Thiên Chúa và tôi tin vào Ngài. Có thể nói rằng, đây là một khám phá hoàn toàn cá nhân, không do tuyên truyền hoặc bị đầu độc”.

Trước khi đến Hoa Kỳ, bà Svetlana đã dừng chân một thời gian ngắn tại Thụy Sĩ. Nơi đây, bà cố gắng không để lộ sự hiện diện của mình. Để được hoàn toàn ẩn kín, bà xin trọ nơi một nữ tu viện, nằm ở vùng phụ cận Fribourg. Sau đó bà chuyển sang trọ nơi nhà các nữ tu “Thăm Viếng” ngay trung tâm thành phố Fribourg. Tại đây, vào mỗi Chúa Nhật, bà đến nhà thờ Chánh Tòa để tham dự thánh lễ.
Nhưng khi đặt chân đến Hoa Kỳ, bà Svetlana quyết định ra khỏi bóng tối và im lặng. Tại phi trường New York, bà công khai tuyên bố: “Tôi đến đây để được tự do diễn tả tư tưởng và tâm tình tôn giáo cá nhân, điều mà tại quê hương tôi, đã từng mấy chục năm qua, người ta luôn luôn tước đoạt, đe dọa và ngăn cấm”. Rồi bà buồn bã nói tiếp: “Ngoài những lý do sâu xa khiến tôi buộc lòng phải rời bỏ Liên Xô, tôi không thể bỏ quên con cái tôi vẫn còn ở lại Moscou. Nhưng tôi an tâm khi nghĩ rằng, các con hiểu tôi và chúng thông cảm cũng như sẵn sàng chấp nhận thái độ cùng quyết định của tôi. Chính các con tôi cũng ao ước tìm ra chân lý và đạt đến niềm tin vào Thiên Chúa. Tôi tha thiết nguyện xin Thiên Chúa soi sáng và giúp đỡ các con yêu dấu của tôi. Tôi đoan chắc rằng các con tôi không từ bỏ tôi và một ngày hạnh phúc nào đó, chúng tôi lại được may mắn gặp lại nhau”.

... “Thiên Chúa cho con người sống một số ngày và một thời gian nhất định. Chúa ban cho họ có quyền đối với các vật trên trái đất. Chúa cho họ có sức mạnh giống như Chúa. Chúa dựng nên họ giống hình ảnh Chúa. Chúa cho họ 5 hoạt động giống như Chúa, rồi cả hoạt động thứ sáu là Trí Khôn, và hoạt động thứ bảy là Lời Nói giải thích các việc Chúa làm. Chúa cho họ Trí Khôn để phán đoán, Lưỡi để nói, Mắt để xem, Tai để nghe và Trái Tim để suy nghĩ. Chúa đổ đầy vào họ trí thức thông minh. Chúa dạy cho họ biết sự lành sự dữ. Chúa đặt MẮT Chúa vào lòng họ, để họ xem thấy công trình cao cả của Chúa, mà ca tụng những việc lạ lùng của Chúa đến muôn đời. Chúa cũng ban cho họ kiến thức và lề luật, để con người sống xứng đáng là con người và là con Thiên Chúa” (Huấn Ca 17,2-11).

2. CHÚNG CON NGUYỆN DANH CHA CẢ SÁNG

Từ khi hai ông bà nguyên tổ loài người phạm tội, cửa Trời khép lại và con người sống cách biệt Thiên Chúa, trốn tránh Ngài và không dám kêu cầu Danh Thánh Ngài. Thiên Chúa gọi Ađam và phán bảo ông: “Ngươi đang ở đâu?”. Ông thưa: “Con nghe tiếng Ngài trong vườn địa đàng, nhưng con sợ hãi, vì con trần truồng và con đang ẩn núp” (Sáng-Thế 3,9). Phải, chính con người tự tách biệt khỏi Thiên Chúa do tội lỗi của mình. Nhưng kể từ ngày Con Thiên Chúa giáng trần, cứu độ thế giới, mọi sự đổi thay. Cửa Trời rộng mở, con người được giao hòa với Thiên Chúa trong liên hệ CHA-con. Đây là mầu nhiệm khôn lường của Tình Yêu! Từ đó, con người có thể ngước nhìn Trời Cao và khẩn cầu Danh Thánh Thiên Chúa là CHA.

“Nguyện danh CHA cả sáng” giữa lòng thế giới, trong toàn thể nhân loại. Nhận biết Danh Thánh Thiên Chúa đồng nghĩa với việc tiến bước trên con đường thánh thiện. Khi các thừa sai ra đi rao giảng Tin Mừng, trước tiên các ngài làm tỏa sáng Danh Thánh Thiên Chúa giữa các dân ngoại để muôn dân nhận biết sự hiện hữu của một Thiên Chúa là CHA.

Điều đầu tiên con cái loài người nguyện xin cho Thiên Chúa là CHA: mong CHA thực hiện các khát vọng cùng các sáng kiến của CHA nơi cuộc sống của từng người con, cũng như trong lịch sử nhân loại và trong toàn thế giới. Nguyện ước thực tiễn nhất con cái bày tỏ cùng CHA trên Trời: xin CHA hoàn thành chương trình cứu rỗi do Chúa GIÊSU Con CHA khởi đầu. Chương trình Thiên Chúa CHA được thể hiện qua việc Danh CHA được cả sáng, Nước CHA trị đến và Ý CHA được kiện toàn.

“Nguyện danh CHA cả sáng” là lời khẩn cầu đầu tiên của người con dành cho Thiên Chúa là CHA. Người con như thân thưa cùng Thiên Chúa rằng: Con ao ước biết bao cho mọi người được biết đến Danh Thánh CHA, hầu CHA có thể tỏ lộ cùng họ sự thánh thiện khôn lường của CHA, nghĩa là, Tình Thương Bao La của CHA.

(Câu chuyện sau đây xảy ra tại Việt Nam vào năm 1896, và do một linh mục thừa sai kể).

Một gia đình người lương ở Đà Nẵng rất có thiện cảm với đạo Công Giáo và tận tình giúp đỡ các linh mục ngoại quốc đang truyền giáo tại Việt Nam. Đã hai lần, gia đình này cứu tôi thoát khỏi nanh vuốt của Quan Tổng Trấn và các quân lính, lùng bắt các linh mục. Họ chẳng những cho tôi trú ẩn trong nhà, mà còn thay phiên nhau canh phòng cẩn mật ngày đêm, để không một ai nhận ra hoặc nghi ngờ gì về sự hiện diện của tôi. Chưa hết, họ còn chu đáo dọn cho tôi những món ăn đặc biệt của người Việt Nam với gạo thơm và nước trà hảo hạng.

Nhận thấy những cử chỉ tốt lành ấy, tôi vui mừng tự nhủ: “Gia đình ngoại giáo này hội đủ điều kiện để có thể lĩnh hội đạo lý Kitô”. Nghĩ thế, nên tôi ra công thuyết phục họ. Tôi cố gắng trình bày mọi khía cạnh cao cả của Kitô Giáo. Tôi cũng tìm ra các lý lẽ minh chứng rằng: Kitô Giáo rao giảng một nền luân lý thanh thoát và trong sạch, dựa trên Tình Yêu Thiên Chúa và tình thương con người.. Tôi thi thố mọi tài năng giảng thuyết, hầu đưa gia đình ngoại giáo trở về cùng Thiên Chúa. Nhưng tôi ngạc nhiên và thất vọng biết bao khi thấy họ hoàn toàn dửng dưng. Kitô Giáo không có gì mới lạ để lôi cuốn họ. Thấy thế, tôi liền kêu đến Trời Cao. Tôi khẩn nài Thiên Chúa soi sáng phải dùng phương thế nào, và rao giảng ra sao để đưa những ân nhân của tôi gia nhập Giáo Hội Công Giáo. Và Thiên Chúa đã nhận lời tôi qua trung gian của một cậu bé, bằng một phương thế thật bất ngờ.

Cậu bé đó trạc tuổi 12-13 và là con của người hàng xóm. Cậu hoàn toàn mù tịt về đức tin Kitô, nhưng đã tình cờ nghe đọc một vài đoạn Kinh Thánh, dịch ra tiếng Việt. Một ngày, cậu bé kể lại câu chuyện thiếu niên Tobia được tổng lãnh Thiên Thần Raphael dẫn đường, cho cô thiếu nữ láng giềng nghe. Đây là cô con gái cưng của hai ông bà chủ nhà tôi đang trọ. Cô gái vừa thông minh vừa duyên dáng.

Ngay ngày hôm sau, thiếu nữ nói với tôi: “Con biết có một tôn giáo đẹp hơn tôn giáo của cha. Đó là tôn giáo của các Thiên Thần, sứ giả của Trời Cao. Nếu cha cũng biết tôn giáo này và thông truyền lại cho chúng con, con xin lãnh phần trách nhiệm đưa toàn thể gia đình con trở về với tôn giáo tuyệt vời ấy”.

Nghe thiếu nữ nói, tôi hiểu ngay bàn tay Thiên Chúa đã can thiệp. Tôi hoan hỉ trả lời: “Được. Tôi sẽ nói cho cô và gia đình cô nghe về giáo lý và chuyện các Thiên Thần”. Mọi người chấp thuận và ngồi quây quần chung quanh tôi. Tôi cẩn thận rút từ Kinh Thánh tất cả những trình thuật liên quan đến các Thiên Thần, bắt đầu từ Cựu Ước rồi sang Tân Ước. Trước tiên là chuyện con rắn trong vườn Địa Đàng và Thiên Thần cứu sống Isaac, con trai duy nhất của tổ phụ Abraham. Rồi đến thị kiến về thiên thần của ông Giuda Maccabêô, vv .. Trong Tân Ước, tôi bắt đầu câu chuyện Tổng Lãnh Thiên Thần Gabrie được Thiên Chúa sai đến truyền tin cho Trinh Nữ Rất Thánh MARIA, và kết thúc với chuyện các Thiên Thần xuất hiện nơi mồ Chúa, loan báo Tin Mừng Phục Sinh. Sau cùng, khi Chúa GIÊSU Về Trời, hai Thiên Thần xuất hiện và nói: "Hỡi những người Galilê, sao còn đứng nhìn lên Trời? Chúa GIÊSU, Đấng vừa lìa bỏ các ông và được rước lên Trời, cũng sẽ ngự đến y như các ông đã trông thấy Người lên Trời"(Công Vụ 1,11).

Suốt cuộc đời truyền giáo, chưa bao giờ tôi thành công trong việc giảng thuyết như lần này. Mọi người há hốc miệng nghe, như nuốt từng lời tôi nói, say mê theo dõi câu chuyện tuyệt diệu về các Thiên Thần. Khi tôi dứt lời, tất cả đồng thanh kêu lên: “Chúng tôi xin từ bỏ các thần ngoại giáo để tin nhận Thiên Chúa Toàn Năng, Đấng có các Thiên Thần làm Bộ Trưởng và Ngài đã trao ban cho từng thụ tạo một Thiên Thần Hộ Thủ, chăm sóc và giữ gìn!”.

Với niềm vui khôn tả, tôi dõng dạc tuyên bố: “Hỡi các bạn, kể từ giờ phút này, các bạn là tín hữu Công Giáo, bởi vì, tất cả những gì tôi vừa kể cho các bạn nghe, mới chỉ là một phần nhỏ của Kitô Giáo, tôn giáo do chính Chúa GIÊSU KITÔ sáng lập”. Những ngày kế tiếp, tôi bắt đầu giảng giải đạo lý Công Giáo một cách có hệ thống hơn. Và sau một tháng, tôi rửa tội cho toàn thể gia đình ân nhân của tôi ...

Lạy Chúa, ước gì chúng con trở thành những người mang lại niềm vui cho các Thánh Thiên Thần Bản Mệnh, để nhờ sự trợ giúp của các ngài, Danh Chúa được hiển sáng nơi chúng con và ngày kia, khi được sum họp với các ngài trên thiên quốc, chúng con sẽ cùng với các ngài chúc tụng Danh Thánh Chúa đến mãi muôn đời. Amen. (Kết thúc lời nguyện cùng các Thánh Thiên Thần Bản Mệnh).


3. CHÚNG CON NGUYỆN DANH CHA CẢ SÁNG

“Đạo Đức Chúa Trời có 10 Điều Răn. Thứ nhất, thờ phượng một Đức Chúa Trời và kính mến Người trên hết mọi sự. Thứ hai, chớ kêu tên Đức Chúa Trời vô cớ”.

Đó là Điều Răn do chính Thiên Chúa truyền cho Maisen trên núi Sinai. Khi nào con người “kêu tên Đức Chúa Trời vô cớ”? Trước tiên, khi con người nói lộng ngôn, xúc phạm đến Danh Thánh Thiên Chúa. Tiếp đến, khi con người kêu cầu Danh Thánh Thiên Chúa, nhưng lại không sống xứng đáng với Danh Ngài. Một người con không thể nói: Con yêu cha và thảo kính cha rồi ngay sau đó, lại không làm điều cha mong muốn và truyền dạy. Hoặc tệ hơn, làm ngược lại với lời giáo huấn của cha. Chúa GIÊSU phán: Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: “Lạy Thiên Chúa! Lạy Thiên Chúa! là được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên Trời, mới được vào mà thôi. Trong ngày ấy, nhiều người sẽ thưa với Thầy rằng: “Lạy Thiên Chúa! Lạy Thiên Chúa! Nào chúng con đã chẳng từng nhân danh Chúa mà làm nhiều phép lạ đó sao?”. Và bấy giờ Thầy sẽ tuyên bố với họ: “Ta không hề biết các ngươi. Hãy xéo đi cho khuất mắt Ta, hỡi bọn làm điều gian ác!” (Mt 7,21-23).

Con người chỉ xúc phạm đến Thiên Chúa khi kêu tên Ngài vô cớ. Thế nhưng, khi con người sa ngã phạm tội, khi con người đang ở trong trạng thái tội lỗi, càng cần phải kêu cầu đến Danh Thánh Thiên Chúa. Kêu cầu Danh Thánh Chúa để được tha thứ và để được ơn trợ giúp trong cơn chiến đấu với ba thù: ma quỷ, xác thịt và thế gian. Mỗi khi bị Satan tấn công, kềm kẹp, hãy kêu cầu Danh Thánh Chúa. Chỉ duy nhất Danh Thánh Chúa mới có thể đẩy xa tên Cám-Dỗ và giải thoát con người khỏi ách thống trị của Satan, của tội lỗi. Kêu cầu Danh Thánh Chúa với tâm tình đơn sơ tín thác sẽ đem đến cho con người cả một suối nguồn sức mạnh và ơn thánh.

Đọc Sáng-Thế-Ký, người ta ghi nhận chi tiết: con rắn cám dỗ bà Evà vào giờ vắng bóng Thiên Chúa nơi vườn Địa Đàng. Chiều đến, khi Thiên Chúa xuất hiện để chuyện vãn với hai nguyên tổ, như thói quen Ngài vẫn làm, thì .. "mọi sự đã rồi!". “Ông Adong và Bà Evà nghe bước chân GiaVê Thiên Chúa dạo chơi trong vườn lúc chiều buông xuống, Ông Bà liền ẩn tránh khỏi nhan thánh GiaVê Thiên Chúa, giữa các bụi cây trong Vườn .. Thiên Chúa gọi Adong và phán bảo ông: “Ngươi đang ở đâu?”. Ông thưa: “Con nghe tiếng Ngài trong vườn địa đàng, nhưng con sợ hãi, vì con trần truồng và con đang ẩn núp”. Chúa hỏi ông: “Ai đã chỉ cho ngươi biết rằng ngươi trần truồng, há chẳng phải tại ngươi đã ăn “trái cây” mà Ta cấm ngươi không được ăn ư?” (Sáng-Thế 3,8-11) ..

Con rắn đã cám dỗ bà Evà vào giờ vắng bóng Thiên Chúa nơi vườn Địa Đàng. Đúng thế, nếu Thiên Chúa hiện diện nơi vườn Địa Đàng, Satan không thể nào có mặt ở đó. Hơn nữa, nếu bà Evà biết khôn ngoan và khiêm tốn khẩn cầu Danh Thánh Thiên Chúa, hẳn Satan đã khiếp sợ bỏ trốn mất. Ước gì mỗi người ghi nhớ điều này. Mỗi khi bị cám dỗ, mỗi lúc gặp nguy nan, hãy kêu cầu Danh Thánh Thiên Chúa. Danh Thánh Thiên Chúa có sức mạnh cứu rỗi và giải thoát.

4. CHÚNG CON NGUYỆN DANH CHA CẢ SÁNG


... Trong túi áo của một binh sĩ Nga tử trận, người ta tìm thấy bức thư sau đây.

Chúa có nghe tiếng con không, lạy Chúa? Trong đời con, con chưa hề bao giờ thưa chuyện với Chúa. Tuy nhiên, ngày hôm nay đây, con cảm thấy nhu cầu cần phải chào kính Chúa. Con biết rằng, ngay từ lúc còn thơ, người ta đã không ngừng lập đi lập lại, rót vào tai con rằng: “Thiên Chúa không hiện hữu! Không có Thiên Chúa!”. Và con, con thật dại dột ngu si đến độ, con tin rằng điều đó đúng thật, nghĩa là không có Thiên Chúa! Cho đến giờ phút này đây, con cũng chưa bao giờ để ý đến hoặc chiêm ngắm vẻ đẹp của thiên nhiên. Chỉ mới ngày hôm nay thôi, con mới nhận ra vẻ đẹp này. Đối diện với trái đất, là bầu trời đầy sao, đang hiện diện trên đầu con. Con lặng lẽ chiêm ngắm vẻ đẹp tuyệt vời của bầu trời lấp lánh muôn ngàn tinh tú! Ôi lộng lẫy biết là chừng nào! Làm sao mà con đã có thể bị lừa dối một cách phũ phàng cay đắng đến như thế! Lạy Chúa, con không biết là Chúa có giơ tay ra tiếp đón con không, nhưng phần con, con xin xưng thú điều này với Chúa và con tin rằng, Chúa sẽ hiểu con, đó là: một phép lạ đã xảy ra, bởi vì, giữa vực thẳm của địa ngục trần gian khủng khiếp, ánh sáng đã chiếu dọi, và con đã tìm thấy ánh sáng!

Con sẽ không nói thêm với Chúa điều gì khác nữa, ngoài việc bày tỏ với Chúa niềm vui vì được biết rằng: “Thiên Chúa hiện hữu thật sự. Ngài là Đấng Hằng Sống. Vào đúng nửa đêm, đêm nay, chúng con được lệnh phải bắt đầu cuộc tấn công. Nhưng kể từ giờ phút này đây, con không còn sợ hãi gì nữa hết! Bởi vì, con biết rằng, "Chúa đang ghé mắt chăm chú nhìn con"... Thôi, Chúa ơi, đã có còi báo hiệu rồi. Phải làm sao bây giờ? Con không có chọn lựa nào khác, ngoài chọn lựa là phải thi hành quân lệnh! Tuy nhiên, nếu được ở yên nơi đây với Chúa thì thật êm ái dịu dàng biết bao! Con còn muốn vội vàng bày tỏ thêm với Chúa điều này nữa: “Chúa biết không, trận chiến này sẽ vô cùng khốc liệt! Có lẽ ngay chính đêm nay, con sẽ đến gõ cửa nơi Nhà Chúa!”

Cho dẫu rằng, con đã không bao giờ là bạn hữu thân tình với Chúa, nhưng Chúa có cho phép con được vào trú ngụ nơi Nhà Chúa không? Xem kìa, người ta bảo rằng con đang khóc ... Chúa có thấy đó là điều lạ lùng đang xảy ra nơi một binh sĩ ở chiến trường không? ... Sở dĩ con khóc, là vì đôi mắt tinh thần của con đã được mở ra! Lạy Chúa, xin hãy tha thứ cho con. Con sắp xông vào trận chiến và con biết chắc chắn rằng, con sẽ không còn sống sót để trở về với gia đình. Nhưng lạ lùng và tuyệt diệu thay, con không cảm thấy sợ chết chút nào hết!!


Hãy ca tụng Chúa, tự cõi trời thăm thẳm.
Hãy ca tụng Người, mãi tận chốn cao xanh.
Hãy ca tụng Chúa, mọi sứ thần thuộc hạ.
Hãy ca tụng Người, toàn thể đạo thiên quân! ...
Hãy ca tụng Chúa, này vừng ô bóng nguyệt.
Hãy ca tụng Người, muôn tinh tú rạng soi.
Hãy ca tụng Chúa, hỡi cửu trùng cao vút.
Cả khối nước trời, chứa trên khoảng thinh không! ...
Hãy ca tụng Chúa, tự khắp mười phương đất.
Bậc vua chúa cũng như hàng lê thứ.
Khanh tướng công hầu, thủ lãnh trần gian.
Ai là nam thanh, ai là nữ tú.
Khắp mặt bô lão, khắp mặt nhi đồng.
Nào hãy ca mừng THÁNH DANH ĐỨC CHÚA!
(Thánh vịnh 148)